Tìm hiểu về trống đồng Ngọc Lũ ( Viết thành bài hoàn chỉnh )
Trống đồng Ngọc Lũ: Bảo vật ghi lại văn hóa thời kỳ Đông Sơn
Là bảo vật đầu tiên trong danh sách những Bảo vật Quốc gia được công nhận, Trống đồng Ngọc Lũ được ví như một quyển sách chép lại toàn bộ văn hóa thời kỳ Đông Sơn cách đây 2.500 năm bằng hình ảnh.
Ngọc Lũ là một trong những chiếc trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn và hoa văn phong phú nhất. Năm 1893-1894, ông Nguyễn Văn Y và Nguyễn Văn Túc cùng một số người khác trong quá trình đắp đê Trần Thủy ở xã Như Trác, huyện Nam Xang, Phủ Lý, Hà Nam đã tìm thấy trống ở độ sâu 2 mét dưỡi bãi cát bồi. Trống đồng sau đó được đem cúng vào đình làng Ngọc Lũ, khi có đình đám cúng tề thì đem ra dùng. Năm 1902, Viện Viễn Đông Bác cổ đã chi ra 550 đồng bạc Đông Dương để mua lại chiếc trống này rồi kể từ đó Trống đồng Ngọc Lũ được lưu giữ và trưng bày tại đây. ( nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).
Bảo vật Quốc gia được bảo quản trong môi trường và nhiệt độ ổn định để tránh tác động của thời gian và môi trường, nhiệt độ.
Trong thời kỳ hình thành và phát triển của nền văn minh Việt cổ, dân tộc ta đã có một loại di vật tiêu biểu đó chính là Trống đồng. Có thể nói đây là sản phẩm của thời kỳ cực thịnh của Nhà nước Văn Lang. Trống đồng Ngọc Lũ có niên đại khoảng 2.500 năm, được xếp vào loại H1 - Heger (theo sự phân loại dựa trên 165 chiếc trống đồng được biết đến thời điểm ấy của học giả F.Héger - người Áo - vào năm 1902), H1 là “loại cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời”. Ngọc Lũ là một trong số không nhiều trống đồng giữ vai trò ấy.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Đoàn - Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam từng nói: "Có thể ví chiếc trống này giống như một quyển sách chép lại toàn bộ văn hóa thời kỳ Đông Sơn cách đây 2.500 - 2.000 năm bằng hình ảnh. Vì thời kỳ đó, ở Việt Nam chưa có tư liệu thành văn nào viết về bất cứ thứ gì. Cho nên trống đồng Ngọc Lũ được coi là cuốn sử ghi chép bằng hình ảnh toàn vẹn nhất. Là tư liệu nghiên cứu quý giá cho các nhà khoa học".
Mặc dù trong những năm qua tại Việt Nam cùng một số nước khu vực Đông Nam Á cũng phát hiện được trống đồng Đông Sơn với số lượng khá lớn. Nhưng vẫn chỉ có trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ được chọn và công nhận là Bảo vật Quốc gia bởi vì cả hai chiếc trống này có hình dáng nguyên vẹn nhất so với niên đại và ẩn chứa lượng thông tin dày đặc vô cùng quan trọng mà những chiếc trống khác không có được.
Đối với các nhà khoa học thì trống đồng Ngọc Lũ là tư liệu quý giá giúp phác họa lại hình ảnh không gian sinh hoạt của người Việt cổ. Có thể khẳng định Trống đồng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt đa dạng của cư dân xã hội Đông Sơn. Về cơ bản thì trống là một nhạc khí dùng trong những lễ tiết lớn của cả cộng đồng. Trống đồng còn được dùng trong lễ mai táng chôn theo người chết, trong lễ hội cầu mùa và là biểu tượng quyền lực của tầng lớp thống trị thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Trống đồng là một "nhân chứng" lịch sử nói lên tài năng, kỹ thuật tuyệt vời của chủ nhân đã sáng tạo ra chúng.
Đến nay, nhiều câu hỏi xung quanh Bảo vật quốc gia này vẫn còn chưa được giải đáp hoặc có lời giải nhưng vẫn còn nhiều nghi vấn, khúc mắc..Dù vậy, một điều chắc chắn không ai có thể phủ nhận đó là Trống đồng Ngọc Lũ là một bảo vật đặc biệt linh thiêng của người Việt. Bảo vật này hội tụ cả một nền văn minh có niên đại hơn 2.500 năm. Trống đồng Ngọc Lũ là biểu tượng cường thịnh của nền văn hóa Đông Sơn mà ở đó có đầy đủ yếu tố kỹ thuật đúc đồng, trình độ mỹ thuật và chế tác đồ đồng rất cao mà ngày nay chúng ta vẫn vô cùng thán phục. Trống đồng Ngọc Lũ hay trống đồng Đông Sơn đều là dấu ấn đặc biệt của thời đại các Vua Hùng dựng nước.
Hình dáng và hoa văn trên Trống đồng Ngọc Lũ:
Trống có patin màu xanh ngả xám, đường kính mặt 79,3cm, cao 63cm, nặng 86kg, thuộc loại kích thước lớn. Mặt trống đúc liền chờm ra khỏi tang. Tang trống nở phình, thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi. Mặt trống chính giữa đúc nổi ngôi sao 14 cánh bao quanh một mặt tròn nổi, chính là núm để đánh trống. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình lông công. Bao quanh ngôi sao là 16 vành hoa văn. Vành 1, 5, 11 và 16: Những hàng chấm nhỏ. Vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14: Những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3: Những hàng chữ ∫ gẫy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16: Văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10: Hình người và động vật đi quanh ngôi sao theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Trong đó là các nhóm: Người mặc áo lông chim đang nhảy múa, người giã gạo chày đôi, người đánh trống, nhà sàn mái cong, hươu đang đi cùng chim mỏ ngắn bay và chim mỏ dài đứng.
Tang trống chính là chiếc hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh. Phần trên có 6 vành hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng hàng. Vành 2 và 5: Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song. Phần dưới là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá, chó săn được thể hiện theo lối cách điệu. Gắn giữa tang và thân trống là hai đôi quai kép đúc nổi hoa văn bông lúa, đối xứng nhau.
Thân trống hình trụ đứng, là bộ phận nắn âm thanh. Phần giữa của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật. Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa. Phần dưới của thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn.
Chân trống nở choãi hình nón cụt là cửa mở để âm thanh của trống thoát ra và tỏa rộng nhanh chóng, không trang trí.