Trần Quốc Tuấn là một đại danh tướng của dân tộc, ba lần cầm quân đánh đuổi giặc Mông Cổ ra khỏi bờ cõi, bảo vệ nền tự chủ dài lâu cho nước nhà. Ông được phong tước Vương, tên Hưng Đạo nên dân ta thường kính cẩn gọi là Hưng Đạo Vương.
Năm 1284, quân Mông Cổ tràn qua đánh ta lần thứ hai, Hưng Đạo Vương được vua Nhân Tông phong làm Tiết Chế thống lãnh toàn quân chống giặc.
Giặc quá mạnh, Vương phải lui về Vạn Kiếp. Vào giai đoạn này, Vương đã để lại một câu nói bất hủ : "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi trước đã". Chính là nhờ câu nói quyết liệt này mà quân dân ta đại thắng mấy tháng sau đó.
Năm 1287, Mông Cổ lại đem quân đánh ta lần thứ ba, quyết chí của mối nhục bại vong hai lần trước.
Vua Nhân Tông nghe giặc sắp sang, lấy làm lo lắng, mời Hưng Đạo Vương đến, hỏi rằng:
- Lần trước Thoát Hoan bại trận, chuyến này căm tức định sanh đánh báo thù, quân thế nó to hơn trước ta dùng kế gì mà chống lại được ?
Vương thưa :
- Nước ta xưa kia quân dân ta hưởng thái b́ình đã lâu, không tập đến việc chiến trận, cho nên năm trước khi giặc sang đánh, c̣òn có kẻ trốn tránh theo hàng giặc. May nhờ có oai linh Tổ tông và thần vũ của bệ hạ, đánh đâu được đấy, cho nên đã đánh đuổi được chúng ra khỏi bờ cõi. C̣òn như bây giờ, quân ta đã quen việc chinh chiến, mà quân giặc thì phải đi xa mỏi mệt. Vả lại, đã thấy Toa Đô, Lư Hằng, Lư Quán tử trận, tất cũng chột dạ. Quân lính đã sinh nghi sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh.Theo thần, thì chuyến này ta phá giặc lại còn dễ hơn phen trước. Xin bệ hạ đừng lo.
Vua nghe xong mừng rỡ, phó thác binh quyền cho Vương chống giặc.
Lần này, quân Mông Cổ hết sức hung hăng. Nhưng sau cùng, trước sức kháng chiến dũng mãnh của toàn quân toàn dân ta, giặc mỗi ngày một nao núng, binh thua khắp nơi, bèn tìm cách để rút về.
Hưng Đạo Vương thừa thế cho quân mở nhiều mặt phản công, mai phục đường về của giặc trên cả hai ngả thủy bộ.
Tại sông Bạch Đằng, Vương cho đóng cọc sắt nhọn ở thượng lưu, trên phủ bè cỏ, rồi chờ nước thủy triều lên thì ra khiêu chiến, dụ giặc qua chỗ đóng cọc, rồi khi thủy triều xuống, quay lại đánh bổ vào đầu chúng.
Việc bố trí xong xuôi, Vương bèn hô tướng sĩ cùng trỏ tay xuống sông Hóa mà thề rằng :
Phen này không phá được giặc, thề không trở lại khúc sông này nữa.
Quân sĩ ai nấy nức lương tử chiến, kéo một mạch đến Bạch Đằng Giang, hẹn nhau giết giặc trong một trận thủy chiến lương danh của đất nước.
Ngoài kỳ tài dụng binh, Hưng Đạo Vương còn là một người thông minh uyên bác, thuộc làu kinh sử, hiểu rành mưu lược, thông suốt thiên văn địa lí. Vương đã soạn thảo bộ "Binh Thư Yếu Lược" và bộ "Vạn Kiếp Bí Truyền" để dạy các tướng sĩ cách tác chiến, dùng mưu, v.v…
Như khi quân Mông Cổ sanh đánh lần thứ hai, Vương chống giữ mặt Bắc không nổi, phải lui binh về Vạn Kiếp. Tại đây, Vương chiêu tập các đạo, hội được hơn 20 vạn, rồi ban Hịch Tướng Sĩ, lời lẽ vô cùng thắm thiết và hùng tráng khiến tướng sĩ nghe xong, sôi máu căm thù, rồi thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát", có nghĩa là quyết giết quân Mông Cổ. Phần chót của bài hịch có những đọan như sau :
"Nay các ngươi thấy chủ bị nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sĩ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao đâm cho thủng được áo giáp; mẹo cờ bạc sao dùng cho nổi việc quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ b́u con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền của đâu mà mua cho được đầu giặc; *** săn ấy thì sao địch nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hăy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các người dẫu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không?
Nay ta bảo thật các ngươi : nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bành Mông, Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc, chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được phụng thờ tổ phụ, trăm năm vinh hiển, chẳng những là một ḿnh ta được sung sướng, mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, ngh́n đời thơm tho; đến bây giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ.
Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh gia hợp lại làm một quyển gọi là "Binh Thư Yếu Lược". Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo, th́ mới phải đạo thần tử, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, th́ tức là kẻ nghịch thù.
Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân sĩ, khác nào như quay ngọn dáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bính Lỗ mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa.
Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta".
Hưng Đạo Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi Trần Thái Tông (Trần Cảnh) là chú. Khi mới chuyển ngôi từ nhà Lư qua Trần Cảnh, giữa Trần Liễu và Trần Cảnh đă có chuyện xung đột và Trần Liễu dặn Vương phải trả mối thù cho ḿnh. Hưng Đạo Vương biết đặt quyền lợi của xă tắc lên trên mối tư thù mà chung thủy suốt cả bốn đời vua là Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, đến Anh Tông. Quyền bính trong tay và công lao trùm đời mà không bao giờ Vương có ư cậy công hay kiêu căng làm loạn nước.
Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông th́ xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp và mất ở đó vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tư (1300). Ông là một đại tướng đă đối đầu quân Mông Cổ trong cả ba lần chúng xâm lăng nước ta.