D
diplomatmissruby
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Share ví mọi người cài này cũng hay nè:--------------------------------------------------------------------------------
Vai trò của các ký hiệu toán học trong nhận thức khoa học
PHA
TS.Lê Văn Đoán
Khoa GDCT - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của toán học, chúng ta nhận thấy rằng, kết cấu logic và sự phát triển của các lý thuyết toán học ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng các ký hiệu toán học và sự cải tiến các ký hiệu đó. Ngày nay, chúng ta đã có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, các ký hiệu toán học không những chỉ là phương tiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học nói chung và toán học nói riêng, mà chúng còn có một giá trị nhận thức luận to lớn. Sở dĩ các ký hiệu toán học có vai trò quan trọng như vậy là do nội dung khách quan của chúng quy định.
Như chúng ta đã biết rằng, trong lịch sử toán học, vào đầu thế kỷ thứ V, khi người ấn Độ đưa ký hiệu vào để chỉ số 0 thì họ đã có thể xoá bỏ được hệ thống tính từng cấp và phát triển hệ thống tính thập phân mà tính ưu việt của nó trong tính toán đã được hàng trăm triệu người trên hành tinh chúng ta sử dụng hàng ngày. Đồng thời, khi nhà khoa học nổi tiếng người Đức là Lépnít đưa ra ký hiệu vi phân và tích phân thì toán học đã thực sự đổi mới. Thật vậy, nếu như trước đây lời giải của nhiều bài toán về tính diện tích, thể tích, cơ học, thiên văn học… đòi hỏi những nỗ lực to lớn mà chỉ những nhà toán học lỗi lạc mới có thể giải được, thì khi các ký hiệu của Lépnít xuất hiện, nhìn chung chúng đã được giải quyết, mặc dù đó là sự giải quyết một cách máy móc. Như vậy, với những ký hiệu toán học, chúng ta có thể giải quyết được những nhiệm vụ gắn liền với thực tiễn. Do ký hiệu toán học có nội dung khách quan đích thực. Ở đây, vấn đề là ở chỗ, nội dung ấy được thể hiện như thế nào trong quá trình nghiên cứu khoa học của chúng ta.
Chúng ta đều biết rằng, nhiều nhà triết học duy tâm thường khẳng định tư duy của con người không có khả năng đưa ra các chân lý khách quan. Song, trên thực tế họ lại luôn minh chứng cho nhận thức luận duy tâm của mình bằng cách sử dụng hệ thống ký hiệu và công thức toán học do các nhà toán học đưa ra. Giải thích việc sử dụng hệ thống này, các nhà triết học duy tâm cho rằng, đối tượng của toán học mang tính trừu tượng cao, trong khi quy luật phát triển của toán học lại rất phức tạp, ngôn ngữ ký hiệu thì ngày càng được sử dụng nhiều trong toán học, nên các chân lý toán học không có tính khách quan. Từ đó, họ coi toán học chỉ là một hệ thống ký hiệu đã được lựa chọn từ trước một cách thích hợp và căn cứ vào đó để minh chứng cho học thuyết của mình. Bác bỏ quan niệm đó, các nhà triết học duy vật đã dựa vào toàn bộ quá trình phát triển của tri thức khoa học để chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy tâm về đối tượng của toán học và phân tích một cách đúng đắn nội dung, ý nghĩa của các ký hiệu toán học.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các ký hiệu toán học, trước hết được sử dụng để ghi lại các khái niệm và các mệnh đề toán học. Chẳng hạn, trong số học các số tự nhiên, các ký hiệu 1, 2, 3… biểu thị đặc điểm về lượng của nhóm đối tượng chứa một, hai, ba… đối tượng. Các ký hiệu >, = , < biểu diễn những sự tương quan, chẳng hạn 1<2 (1 bé hơn 2). Đồng thời, người ta còn sử dụng đấu hiệu các phép tính số học như: +, - , x, : để biểu thị những mối liên hệ có thể có giữa các số tự nhiên. Tất cả các ký hiệu nói trên cho phép ta diễn đạt một cách hoàn toàn chính xác nhiều mệnh đề của số học các số tự nhiên. Ví dụ, ký hiệu (3 x 5) -7 = 4 x 2 biểu diễn một mệnh đề số học.
Trong đại số học, người ta thường dùng các ký hiệu là các chữ như a, b, c,..., x, y, z... để biểu đạt các thông số và những đại lượng biến thiên. Chẳng hạn, trong phương trình ax2 + bx + c = 0, mỗi hệ số a, b, c có thể nhận bất kỳ giá trị thực nào, còn ẩn số x cần tìm là thuộc tập hợp các số phức. Việc sử dụng các ký hiệu về đại lượng biến thiên cho phép ta diễn đạt ở dạng tổng quát các quy luật của đại số và cả các quy luật của các lý thuyết toán học khác. Ví dụ:
a + b + c = (a + b) + c = a + (b + c)
(a + b).c = a.c + b.c
an - bn - (a - b). (an-1 + an-2 b + ... + abn-2 + bn-1)
Trong thực tế, nếu chúng ta khảo sát những sự thể hiện khác nhau của cùng một tiêu đề xuất phát thì không những chỉ các khái niệm về đối tượng của lý thuyết thay đổi, mà cả các khái niệm về sự tương quan và liên hệ giữa chúng cũng thay đổi. Chẳng hạn, trong hệ tiên đề pêanô, các ký hiệu >, =, <, +, -, x, : sẽ có ý nghĩa khác nhau tuỳ theo ký hiệu 1 , 2 , 3 ... biểu thị các số tự nhiên về lượng hay về thứ tự. Ví dụ, ký hiệu 3 < 4 nếu biểu thị về lượng thì có nghĩa là 3 bé hơn 4, song nếu biểu thị về thứ tự thì có nghĩa là 3 đứng trước 4.
Như vậy, có thể nói, các ký hiệu toán học cho phép ta ghi lại một cách cô đọng và dưới dạng dễ nhận thức những mệnh đề rất rườm rà trong ngôn ngữ thông thường. Nhờ đó, ta có thể dễ nhớ và có khả năng nắm được nội dung của chúng. Đồng thời, các ký hiệu này còn được sử dụng một cách có hiệu quả trong toán học để ghi lại các khái niệm và các mệnh đề, mỗi khi chúng phản ánh được những tương quan về lượng và những hình dạng không gian nhất định của thế giới hiện thực. Chính vì vậy, trước khi sử dụng những ký hiệu vào những lập luận của mình, nhà toán họe cần chỉ rõ mỗi ký hiệu như thế biểu thị cái gì, nếu không sẽ dẫn đến những hiểu biết sai lệch điều mà các ký hiệu muốn nói và như vậy, mọi lập luận trong toán học sẽ không thể tiếp tục tiến hành. Chỉ khi ý nghĩa của các ký hiệu đã được thiết là một cách chính xác, chúng ta mới có khả năng hiểu được điều mà các quan hệ muốn diễn đạt.
Trong toán học, vai trò của các ký hiệu rất giống với vai trò của tiếng nói thông thường trong xã hội. Điều này được thể hiện ở chỗ, tiếng nói của các ký hiệu toán học cho phép các nhà toán học trao đổi với nhau và trao đổi với những người khác về chân lý toán học, về việc tổ chức nghiên cứu khoa học. Nhà toán học nổi tiếng người Nga - Lôbasépxki đã nhận định rằng, cũng như tiếng nói thông thường có khả năng làm cho sự hiểu biết của chúng ta thêm phong phú nhờ lĩnh hội được ý kiến của những người khác, tiếng nói của các ký hiệu toán học là một phương tiện hoàn hảo hơn, chính xác và sáng sủa hơn để người này truyền cho người kia những khái niệm mà họ lĩnh hội được, những chân lý mà họ tìm thấy. Nhưng ở đây, cần phải thấy một điều đặc biệt quan trọng là, tiếng nói của các ký hiệu toán học không thể tồn tại được nếu không có tiếng nói thông thường. Tiếng nói thông thường có nội dung phong phú hơn tiếng nói của các ký hiệu toán học. Tất cả những mệnh đề toán học được diễn tả bằng tiếng nói của ký hiệu đều có thể diễn tả bằng tiếng nói thông thường. Nhưng điều ngược lại thì không đúng, mọi mệnh đề được diễn tả bằng tiếng nói thông thường không phải lúc nào cũng có thể diễn tả bằng tiếng nói của các ký hiệu toán học. Tiếng nói của các ký hiệu toán học chỉ là một công cụ bổ sung cho tiếng nói thông thường, nó được sử dụng trong toán học và một phần trong các ngành khoa học khác mà ở đó, có ứng dụng toán học. Việc ký hiệu hoá toán học không đơn thuần là một vấn đề hình thức, một cách viết tắt thuận lợi, mặc dù không bao giờ được xem thường khía cạnh đó. Ngôn ngữ toán học cho phép ta nói ngắn gọn nhiều điều mà nếu diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường sẽ rất dài đòng, phức tạp. Ở đây, chúng ta có thể nhận thấy tính ưu việt của việc sử dụng các ký hiệu toán học, nếu so sánh công thức của bất đẳng thức Bunhiacốpxki:
(a2 + a2 + ... + a2 ).(b2 + b2 + … + b2 ) > (a1b1 + a2b2 +… +anbn)2. Với cách diễn đạt nội dung của nó bằng lời. Rõ ràng, việc phát biểu công thức này bằng lời sẽ dài dòng hơn rất nhiều, và nếu so sánh cách chứng minh bất đẳng thức trên bằng ký hiệu với cách chứng minh bằng lời thì chúng ta càng nhận thấy sự thuận tiện của việc sử dụng các ký hiệu toán học.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các ký hiệu toán học cũng có thể biểu diễn một cách ngắn gọn nội dung toán học và các khoa học khác. Các ký hiệu toán học sẽ không thực hiện được nhiệm vụ chủ yếu này của chúng, nếu chúng chỉ là những biểu hiện ngắn gọn của những dạng ngôn ngữ đài dòng hơn. Chẳng hạn, việc xây dựng cơ học cổ điển đã diễn ra với việc sử dụng các véctơ để diễn tả chuyển động. Theo đánh giá của Anhxtanh, ở đây toàn bộ công việc đã làm chỉ là chuyển những sự kiện đã được thừa nhận từ trước thành một ngôn ngữ phức tạp và kỳ lạ. Nhưng, theo ông, chính cái ngôn ngữ kỳ lạ là véctơ ấy đã dẫn đến những điều khái quát quan trọng mà trong đó, véctơ giữ vai trò nòng cốt.
Vấn đề đáng lưu tâm là ở chỗ, các ký hiệu toán học chỉ có tính ưu việt khi chúng đảm bảo vai trò hàng đầu của mình trong nhận thức khoa học. Điều đó được thể hiện ở việc tham gia giải quyết các nhiệm vụ của chúng. Chẳng hạn, trong đại số học, với các biểu thức bằng chữ, chúng ta dễ dàng thực hiện được các phép tính và biến đổi từ dạng này sang trạng khác. Việc giải một bài toán đại số dẫn tới một hệ hai hoặc ba phương trình tuyến tính mà nếu diễn đạt bằng lời, sẽ không thực hiện được trong khi đó, với các ký hiệu đại số, lời giải của nó được tìm thấy rất nhanh.
Sự tồn tại trong toán học các phép tính, các thuật toán khác nhau cho phép chúng ta giải theo một quy tắc nhất định hàng loạt bài toán mà khoa học tự nhiên và kỹ thuật thường xuyên đặt ra, đó chính là nét đặt trưng của toán học. Để cho các phép toán dẫn đến lời giải của những bài toán xác định, chúng ta cần phải xây dựng những chỉ dẫn chính xác để trên cơ sở đó, từ những cái đã cho lúc đầu mà thu được kết quả cần tìm.
Trong các tập Bản thảo toán học, Mác đã nghiên cứu riêng toán học và để lại nhiều tư tưởng quý giá về các vấn đề mà chúng ta quan tâm. Trong đó, những tư tưởng của Mác về cái gọi là "cuộc cách mạng trong phương pháp" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt phương pháp luận. Trong khi phân tích những quan niệm khác nhau về cơ sở của phép tính vi phân, Mác đã khẳng định rằng, việc sử dụng các ký hiệu trở thành bí ẩn và khó hiểu nếu ngay từ đầu chúng được coi là cái đã cho, đã có sẵn. Điều khẳng định của Mác đã xảy ra đối với các nhà sáng lập phép tính vi phân - Niutơn và Lépnít cùng những người kế tục gần gũi các ông. Trong khi tìm các đạo hàm và vi phân của hàm số, ngay từ đầu, họ đã coi số gia của đối số như là các vi phân. Khi lấy vi phân một hàm số xác định y = f(x) , một bộ phận nào đó được bỏ đi coi như vô cùng nhỏ, nhưng nếu số hạng bỏ đi khác 0 thì việc bỏ nó là một phép toán không hợp pháp; nếu có (dx) = 0 thì khi đó, cả (dy) cũng bằng 0 và đẳng thức của chúng ta biến thành đồng nhất thức 0 = 0. Như vậy, số hạng bỏ đi đồng thời phải là 0 và không là 0. Lẽ đương nhiên là ở đây, không có phép biện chứng nào cả. Trái lại, chính điều này đã đi đến chỗ gán cho các vi phân những tính chất bí ẩn đặc biệt nào đó, khác với các tính chất của các đại lượng thông thường. Vin vào đó, nhà triết học duy tâm Béccơly đã lấy cớ để gọi chúng một cách châm biếm và hài hước là "bóng ma của những đại lượng chết".
Để vứt bỏ tấm màn bí ẩn ở các khái niệm và ký hiệu của phép tính vi phân, theo Mác, cần phải làm cho ký hiệu đặc trưng đối với phép tính .vi phân không xuất hiện như là điểm xuất phát, mà như là kết quả của quá trình hoạt động thực tế không chứa một chút gì là ký hiệu. Mác cho rằng, điểm xuất phát phải nằm trong giới hạn của đại số thông thường mà chưa yêu cầu những thuật toán đặc biệt của phép tính vi phân và các ký hiệu của nó. Ở đây, điều mà chúng ta cần lưu ý là ở chỗ, Mác đã chỉ rõ những việc cần phải làm để tìm ra đạo hàm của một hàm số xác định (y = f (xi) Trước hết, Mác lập các số gia hữu hạn Δx và Δy. Trong khi một số nhà triết học duy tâm, chẳng hạn như Alembécxơ, coi các số gia đó như những cái đã tồn tại từ trước, bất luận sự biến đổi nào của các biến số, thì Mác, trái lại, coi chúng như là kết quả biến đổi của các biến số.
Vai trò của các ký hiệu toán học trong nhận thức khoa học
PHA
TS.Lê Văn Đoán
Khoa GDCT - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của toán học, chúng ta nhận thấy rằng, kết cấu logic và sự phát triển của các lý thuyết toán học ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng các ký hiệu toán học và sự cải tiến các ký hiệu đó. Ngày nay, chúng ta đã có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, các ký hiệu toán học không những chỉ là phương tiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học nói chung và toán học nói riêng, mà chúng còn có một giá trị nhận thức luận to lớn. Sở dĩ các ký hiệu toán học có vai trò quan trọng như vậy là do nội dung khách quan của chúng quy định.
Như chúng ta đã biết rằng, trong lịch sử toán học, vào đầu thế kỷ thứ V, khi người ấn Độ đưa ký hiệu vào để chỉ số 0 thì họ đã có thể xoá bỏ được hệ thống tính từng cấp và phát triển hệ thống tính thập phân mà tính ưu việt của nó trong tính toán đã được hàng trăm triệu người trên hành tinh chúng ta sử dụng hàng ngày. Đồng thời, khi nhà khoa học nổi tiếng người Đức là Lépnít đưa ra ký hiệu vi phân và tích phân thì toán học đã thực sự đổi mới. Thật vậy, nếu như trước đây lời giải của nhiều bài toán về tính diện tích, thể tích, cơ học, thiên văn học… đòi hỏi những nỗ lực to lớn mà chỉ những nhà toán học lỗi lạc mới có thể giải được, thì khi các ký hiệu của Lépnít xuất hiện, nhìn chung chúng đã được giải quyết, mặc dù đó là sự giải quyết một cách máy móc. Như vậy, với những ký hiệu toán học, chúng ta có thể giải quyết được những nhiệm vụ gắn liền với thực tiễn. Do ký hiệu toán học có nội dung khách quan đích thực. Ở đây, vấn đề là ở chỗ, nội dung ấy được thể hiện như thế nào trong quá trình nghiên cứu khoa học của chúng ta.
Chúng ta đều biết rằng, nhiều nhà triết học duy tâm thường khẳng định tư duy của con người không có khả năng đưa ra các chân lý khách quan. Song, trên thực tế họ lại luôn minh chứng cho nhận thức luận duy tâm của mình bằng cách sử dụng hệ thống ký hiệu và công thức toán học do các nhà toán học đưa ra. Giải thích việc sử dụng hệ thống này, các nhà triết học duy tâm cho rằng, đối tượng của toán học mang tính trừu tượng cao, trong khi quy luật phát triển của toán học lại rất phức tạp, ngôn ngữ ký hiệu thì ngày càng được sử dụng nhiều trong toán học, nên các chân lý toán học không có tính khách quan. Từ đó, họ coi toán học chỉ là một hệ thống ký hiệu đã được lựa chọn từ trước một cách thích hợp và căn cứ vào đó để minh chứng cho học thuyết của mình. Bác bỏ quan niệm đó, các nhà triết học duy vật đã dựa vào toàn bộ quá trình phát triển của tri thức khoa học để chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy tâm về đối tượng của toán học và phân tích một cách đúng đắn nội dung, ý nghĩa của các ký hiệu toán học.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các ký hiệu toán học, trước hết được sử dụng để ghi lại các khái niệm và các mệnh đề toán học. Chẳng hạn, trong số học các số tự nhiên, các ký hiệu 1, 2, 3… biểu thị đặc điểm về lượng của nhóm đối tượng chứa một, hai, ba… đối tượng. Các ký hiệu >, = , < biểu diễn những sự tương quan, chẳng hạn 1<2 (1 bé hơn 2). Đồng thời, người ta còn sử dụng đấu hiệu các phép tính số học như: +, - , x, : để biểu thị những mối liên hệ có thể có giữa các số tự nhiên. Tất cả các ký hiệu nói trên cho phép ta diễn đạt một cách hoàn toàn chính xác nhiều mệnh đề của số học các số tự nhiên. Ví dụ, ký hiệu (3 x 5) -7 = 4 x 2 biểu diễn một mệnh đề số học.
Trong đại số học, người ta thường dùng các ký hiệu là các chữ như a, b, c,..., x, y, z... để biểu đạt các thông số và những đại lượng biến thiên. Chẳng hạn, trong phương trình ax2 + bx + c = 0, mỗi hệ số a, b, c có thể nhận bất kỳ giá trị thực nào, còn ẩn số x cần tìm là thuộc tập hợp các số phức. Việc sử dụng các ký hiệu về đại lượng biến thiên cho phép ta diễn đạt ở dạng tổng quát các quy luật của đại số và cả các quy luật của các lý thuyết toán học khác. Ví dụ:
a + b + c = (a + b) + c = a + (b + c)
(a + b).c = a.c + b.c
an - bn - (a - b). (an-1 + an-2 b + ... + abn-2 + bn-1)
Trong thực tế, nếu chúng ta khảo sát những sự thể hiện khác nhau của cùng một tiêu đề xuất phát thì không những chỉ các khái niệm về đối tượng của lý thuyết thay đổi, mà cả các khái niệm về sự tương quan và liên hệ giữa chúng cũng thay đổi. Chẳng hạn, trong hệ tiên đề pêanô, các ký hiệu >, =, <, +, -, x, : sẽ có ý nghĩa khác nhau tuỳ theo ký hiệu 1 , 2 , 3 ... biểu thị các số tự nhiên về lượng hay về thứ tự. Ví dụ, ký hiệu 3 < 4 nếu biểu thị về lượng thì có nghĩa là 3 bé hơn 4, song nếu biểu thị về thứ tự thì có nghĩa là 3 đứng trước 4.
Như vậy, có thể nói, các ký hiệu toán học cho phép ta ghi lại một cách cô đọng và dưới dạng dễ nhận thức những mệnh đề rất rườm rà trong ngôn ngữ thông thường. Nhờ đó, ta có thể dễ nhớ và có khả năng nắm được nội dung của chúng. Đồng thời, các ký hiệu này còn được sử dụng một cách có hiệu quả trong toán học để ghi lại các khái niệm và các mệnh đề, mỗi khi chúng phản ánh được những tương quan về lượng và những hình dạng không gian nhất định của thế giới hiện thực. Chính vì vậy, trước khi sử dụng những ký hiệu vào những lập luận của mình, nhà toán họe cần chỉ rõ mỗi ký hiệu như thế biểu thị cái gì, nếu không sẽ dẫn đến những hiểu biết sai lệch điều mà các ký hiệu muốn nói và như vậy, mọi lập luận trong toán học sẽ không thể tiếp tục tiến hành. Chỉ khi ý nghĩa của các ký hiệu đã được thiết là một cách chính xác, chúng ta mới có khả năng hiểu được điều mà các quan hệ muốn diễn đạt.
Trong toán học, vai trò của các ký hiệu rất giống với vai trò của tiếng nói thông thường trong xã hội. Điều này được thể hiện ở chỗ, tiếng nói của các ký hiệu toán học cho phép các nhà toán học trao đổi với nhau và trao đổi với những người khác về chân lý toán học, về việc tổ chức nghiên cứu khoa học. Nhà toán học nổi tiếng người Nga - Lôbasépxki đã nhận định rằng, cũng như tiếng nói thông thường có khả năng làm cho sự hiểu biết của chúng ta thêm phong phú nhờ lĩnh hội được ý kiến của những người khác, tiếng nói của các ký hiệu toán học là một phương tiện hoàn hảo hơn, chính xác và sáng sủa hơn để người này truyền cho người kia những khái niệm mà họ lĩnh hội được, những chân lý mà họ tìm thấy. Nhưng ở đây, cần phải thấy một điều đặc biệt quan trọng là, tiếng nói của các ký hiệu toán học không thể tồn tại được nếu không có tiếng nói thông thường. Tiếng nói thông thường có nội dung phong phú hơn tiếng nói của các ký hiệu toán học. Tất cả những mệnh đề toán học được diễn tả bằng tiếng nói của ký hiệu đều có thể diễn tả bằng tiếng nói thông thường. Nhưng điều ngược lại thì không đúng, mọi mệnh đề được diễn tả bằng tiếng nói thông thường không phải lúc nào cũng có thể diễn tả bằng tiếng nói của các ký hiệu toán học. Tiếng nói của các ký hiệu toán học chỉ là một công cụ bổ sung cho tiếng nói thông thường, nó được sử dụng trong toán học và một phần trong các ngành khoa học khác mà ở đó, có ứng dụng toán học. Việc ký hiệu hoá toán học không đơn thuần là một vấn đề hình thức, một cách viết tắt thuận lợi, mặc dù không bao giờ được xem thường khía cạnh đó. Ngôn ngữ toán học cho phép ta nói ngắn gọn nhiều điều mà nếu diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường sẽ rất dài đòng, phức tạp. Ở đây, chúng ta có thể nhận thấy tính ưu việt của việc sử dụng các ký hiệu toán học, nếu so sánh công thức của bất đẳng thức Bunhiacốpxki:
(a2 + a2 + ... + a2 ).(b2 + b2 + … + b2 ) > (a1b1 + a2b2 +… +anbn)2. Với cách diễn đạt nội dung của nó bằng lời. Rõ ràng, việc phát biểu công thức này bằng lời sẽ dài dòng hơn rất nhiều, và nếu so sánh cách chứng minh bất đẳng thức trên bằng ký hiệu với cách chứng minh bằng lời thì chúng ta càng nhận thấy sự thuận tiện của việc sử dụng các ký hiệu toán học.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các ký hiệu toán học cũng có thể biểu diễn một cách ngắn gọn nội dung toán học và các khoa học khác. Các ký hiệu toán học sẽ không thực hiện được nhiệm vụ chủ yếu này của chúng, nếu chúng chỉ là những biểu hiện ngắn gọn của những dạng ngôn ngữ đài dòng hơn. Chẳng hạn, việc xây dựng cơ học cổ điển đã diễn ra với việc sử dụng các véctơ để diễn tả chuyển động. Theo đánh giá của Anhxtanh, ở đây toàn bộ công việc đã làm chỉ là chuyển những sự kiện đã được thừa nhận từ trước thành một ngôn ngữ phức tạp và kỳ lạ. Nhưng, theo ông, chính cái ngôn ngữ kỳ lạ là véctơ ấy đã dẫn đến những điều khái quát quan trọng mà trong đó, véctơ giữ vai trò nòng cốt.
Vấn đề đáng lưu tâm là ở chỗ, các ký hiệu toán học chỉ có tính ưu việt khi chúng đảm bảo vai trò hàng đầu của mình trong nhận thức khoa học. Điều đó được thể hiện ở việc tham gia giải quyết các nhiệm vụ của chúng. Chẳng hạn, trong đại số học, với các biểu thức bằng chữ, chúng ta dễ dàng thực hiện được các phép tính và biến đổi từ dạng này sang trạng khác. Việc giải một bài toán đại số dẫn tới một hệ hai hoặc ba phương trình tuyến tính mà nếu diễn đạt bằng lời, sẽ không thực hiện được trong khi đó, với các ký hiệu đại số, lời giải của nó được tìm thấy rất nhanh.
Sự tồn tại trong toán học các phép tính, các thuật toán khác nhau cho phép chúng ta giải theo một quy tắc nhất định hàng loạt bài toán mà khoa học tự nhiên và kỹ thuật thường xuyên đặt ra, đó chính là nét đặt trưng của toán học. Để cho các phép toán dẫn đến lời giải của những bài toán xác định, chúng ta cần phải xây dựng những chỉ dẫn chính xác để trên cơ sở đó, từ những cái đã cho lúc đầu mà thu được kết quả cần tìm.
Trong các tập Bản thảo toán học, Mác đã nghiên cứu riêng toán học và để lại nhiều tư tưởng quý giá về các vấn đề mà chúng ta quan tâm. Trong đó, những tư tưởng của Mác về cái gọi là "cuộc cách mạng trong phương pháp" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt phương pháp luận. Trong khi phân tích những quan niệm khác nhau về cơ sở của phép tính vi phân, Mác đã khẳng định rằng, việc sử dụng các ký hiệu trở thành bí ẩn và khó hiểu nếu ngay từ đầu chúng được coi là cái đã cho, đã có sẵn. Điều khẳng định của Mác đã xảy ra đối với các nhà sáng lập phép tính vi phân - Niutơn và Lépnít cùng những người kế tục gần gũi các ông. Trong khi tìm các đạo hàm và vi phân của hàm số, ngay từ đầu, họ đã coi số gia của đối số như là các vi phân. Khi lấy vi phân một hàm số xác định y = f(x) , một bộ phận nào đó được bỏ đi coi như vô cùng nhỏ, nhưng nếu số hạng bỏ đi khác 0 thì việc bỏ nó là một phép toán không hợp pháp; nếu có (dx) = 0 thì khi đó, cả (dy) cũng bằng 0 và đẳng thức của chúng ta biến thành đồng nhất thức 0 = 0. Như vậy, số hạng bỏ đi đồng thời phải là 0 và không là 0. Lẽ đương nhiên là ở đây, không có phép biện chứng nào cả. Trái lại, chính điều này đã đi đến chỗ gán cho các vi phân những tính chất bí ẩn đặc biệt nào đó, khác với các tính chất của các đại lượng thông thường. Vin vào đó, nhà triết học duy tâm Béccơly đã lấy cớ để gọi chúng một cách châm biếm và hài hước là "bóng ma của những đại lượng chết".
Để vứt bỏ tấm màn bí ẩn ở các khái niệm và ký hiệu của phép tính vi phân, theo Mác, cần phải làm cho ký hiệu đặc trưng đối với phép tính .vi phân không xuất hiện như là điểm xuất phát, mà như là kết quả của quá trình hoạt động thực tế không chứa một chút gì là ký hiệu. Mác cho rằng, điểm xuất phát phải nằm trong giới hạn của đại số thông thường mà chưa yêu cầu những thuật toán đặc biệt của phép tính vi phân và các ký hiệu của nó. Ở đây, điều mà chúng ta cần lưu ý là ở chỗ, Mác đã chỉ rõ những việc cần phải làm để tìm ra đạo hàm của một hàm số xác định (y = f (xi) Trước hết, Mác lập các số gia hữu hạn Δx và Δy. Trong khi một số nhà triết học duy tâm, chẳng hạn như Alembécxơ, coi các số gia đó như những cái đã tồn tại từ trước, bất luận sự biến đổi nào của các biến số, thì Mác, trái lại, coi chúng như là kết quả biến đổi của các biến số.