Văn 9 Tình cảm của ông Sáu với bé Thu

vubopcity

Học sinh chăm học
Thành viên
20 Tháng mười một 2015
162
28
119
21
Hà Nội
THPT Chuyên Sư phạm
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu 1: Nêu suy ngẫm của cháu về bà và bếp lửa.

Câu 2: Nêu ngôi kể và tác dụng ngôi kể trong tác phẩm Chiếc lược ngà.

Câu 3: Phân tích các biện pháp tu từ trong các câu thơ sau:

“ Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát”

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục ”

Câu 4: Viết đoạn văn khoảng 12 câu về tình cảm của ông Sáu với bé Thu.
 

toilatot

Banned
Banned
Thành viên
1 Tháng ba 2017
3,368
2,140
524
Hà Nam
THPT Trần Hưng Đạo -Nam Định
Nhớ về tuổi thơ của mình, nhà thơ xứ Đaghoxlan Razun Gamzatop đã nhớ đến người mẹ thân yêu với những việc làm trở lại trong mọi ngày vào sáng sớm, ban trưa và buổi tối, trong cả bốn mùa xuân - hạ - thu - đông. Đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Nhóm lửa, đi lấy nước, đưa nôi. Bà đã làm việc ấy như nhen nhóm, gìn giữ và nâng niu những gì quý giá nhất của đời mình. Do hoàn cảnh sống, những năm tháng tuổi thơ, Bằng Việt cũng chỉ sống với bà. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Bởi mỗi ngày của tuổi thơ lận đận đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Bên bếp lửa ấy, bà đã bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Sự sống của cháu đã được nhen lên và giữ gìn ngọn lửa ấy. Thì ra thế, ở đất nước nào ngọn lửa cũng là cội nguồn của sự sống, bếp lửa nào cũng nhọc nhằn, tần tảo, bếp lửa nào cùng nồng đượm, ấp iu.

“Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lứa!”

Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn, cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ lại ẩn náu bao điều kì diệu.

“Bếp lửa” là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà yêu quý ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Mặc dù tác giả đã có ý sắp xếp theo một trật tự thời gian, nhưng toàn bài thơ vẫn cứ là một dòng chảy xáo động. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ, các đoạn thơ dài ngắn không đều. Bài thơ gồm hai giọng - giọng kể (tự sự) nắm vai trò tổ chức chung đối với toàn bài, và giọng cảm thương (trữ tình) thấm đượm vào mỗi ki niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc.

Vì thế mỗi một kỉ niệm thức dậy là biết bao tâm tình sống dậv. Cứ thế theo với mạch sự việc, mạch tâm tình cũng thể hiện mà dâng trào. Thiếu một tâm tình sâu nặng, thì các sự việc thời thơ ấu gian khổ có được tái hiện kĩ đến mấy, cũng khó mà thành thơ.

Ngần ấy sự việc suốt mấy chục năm đó chỉ xoay quanh hình tượng bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là hơi ấm. Bếp lứa lặng thầm nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả sự sống này. Nép mình trong góc nhà, xó bếp, có gì mộc mạc khiêm nhường hơn bếp lửa? Nhưng có gì cao quý thiêng liêng hơn? Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, bếp lửa cứ lụi cụi, hi sinh, tần tảo. Cho nên, nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. Đó chính là sự gắn bó tự nhiên kì lạ giữa hai hình ảnh thân thương. Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ ba câu.

"Một bếp lủa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” đã là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tò dần, tỏ dần. Bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng.

Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu nhớ mùi khói từ khi lên bốn. Thì cũng là năm “đói kém” (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” bố bươn trải đưa gia đình qua khỏi thì đói kém mà cứ chìm đi trong kí ức. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: “đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu”... Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ nguyên trong ki ức, chẳng thể tiêu tan:

“Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Mùi khói của quá khứ làm cay sống mũi hiện tại? Hay là nhớ thương từ hiện tại đã làm sống dậy ngọn khói từng hun nhèm mắt cháu mấy chục năm xưa? Trong khoảng khắc ấy của hồi ức, hoài niệm đã xóa đi cái khoảng cách mấy chục năm trời.

Trong những năm tháng ấy, bên cạnh bà cháu, bên cạnh bếp lửa còn có một nhân vật nữa, giờ đây nhớ lại cháu cũng chẳng bao giờ quên: ấy là chim tu hú - “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tiếng chim gợi lên cái không gian mênh mông buồn vắng. Tiếng tu hú nhắc cảnh mùa màng sao trớ trêu trong những ngày đói kém. Tiếng chim tu hú lạc lõng chơ vơ côi út như khát khao được che chở, ấp iu. Đứa cháu được sống trong sự chăm sóc ấm áp của tình bà đã chạnh lòng thương con tu hú bé bỏng, thiệt thòi

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Thương con chim tu hú bất hạnh bao nhiêu là biết ơn những ngày hạnh phúc được bà đùm bọc, chi chút bấy nhiêu.

Nếu chim tu hú đáng thương là cảnh ngộ tương phản với đứa cháu được yêu thương, thì bếp lửa ân cần, ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phán với ngọn lửa thiêu hủy dã man của bọn giặc. Một ngọn lửa thù địch với sự sống: “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi”, một ngọn lửa nhen lên sự sống:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhăn, khôn khổ, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà! Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp ỉu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lứa!

Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ trong ngọn lửa ấy:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chắc lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa'?...

Lời nhắc ấy là lời nhắc của ngọn lửa mà cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà? Thế là ngọn lửa của bà giờ đây đã cháy trong lòng cháu! Một bếp lửa của cuộc đời mới được nhen lên! Cứ thế, ngọn lửa của sự sống truyền đời bất diệt!


 
  • Like
Reactions: vubopcity

toilatot

Banned
Banned
Thành viên
1 Tháng ba 2017
3,368
2,140
524
Hà Nam
THPT Trần Hưng Đạo -Nam Định
Câu 1: Nêu suy ngẫm của cháu về bà và bếp lửa.

Câu 2: Nêu ngôi kể và tác dụng ngôi kể trong tác phẩm Chiếc lược ngà.

Câu 3: Phân tích các biện pháp tu từ trong các câu thơ sau:

“ Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát”

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục ”

Câu 4: Viết đoạn văn khoảng 12 câu về tình cảm của ông Sáu với bé Thu.
caau2 /ngôi thứ 1 giúp câu chuyện chân thực hơn
 

tuandat2k

Học sinh chăm học
Thành viên
18 Tháng chín 2013
185
160
71
25
TP Hồ Chí Minh
ĐHSG
Nguồn: Google Internet
“Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. Hình ảnh “Đan lờ cài nan hoa” thật sinh động. Nó vừa miêu tả một dụng cụ quen thuộc trong lao động sản xuất của người miền núi (cái “lờ” để đánh bắt cá được đan bằng những nan tre vót tròn) vừa gợi lên sự chăm chỉ cần cù lao động của người miền núi (sản xuất dụng cụ đánh bắt cá và hoạt động đánh bắt cá). Còn hình ảnh và âm thanh “Vách nhà ken câu hát” lại gợi lên nhưng sinh hoạt văn hoá của người miền núi. Đó là những buổi hát then vui vẻ, rộn ràng, náo nức bên vách nhà sàn, dưới đêm trăng hay các dịp lễ hội hè. Như thế “Vách nhà ken câu hát” là một yếu tố văn hoá phi vật thể. Chỗ này Y Phương đã muợn phong tục văn hoá của dân tộc mình để thể hiện. Bởi thế người miền núi đọc câu thơ này thì không thể không liên tưởng tới cuộc hò hẹn của những đôi trai gái diễn ra rất nên thơ. Chàng trai ngồi ngoài vách, cô gái ở bên trong vách, hai người hát cho nhau nghe, họ có thể hát “tràn đêm đến sáng bạch”. Chưa hết, cái nôi lớn ấy không phải chỉ có truyền thống lao động sản xuất và truyền thống văn hoá mà còn có cả thiên nhiên giàu có thơ mộng và cuộc sống nghĩa tình của những con người nơi sơn thẳm xa xôi. Rừng núi thì cung cấp cho con người cây gỗ, rau măng và những đoá hoa đẹp đẽ ngát hương còn “con đường” lại “cho những tấm lòng” để làm đẹp thêm cuộc sống. Câu thơ “Rừng cho hoa” thì đã rõ nghĩa nhưng “Con đường cho những tấm lòng” thì hiểu như thế nào đây? Câu thơ trừu tượng, mơ hồ nhưng lại diễn tả sâu sắc cái tình quê. Người Tày sinh sống nơi sơn cao núi thẳm không chỉ gắn bó, hài hoà bên núi rừng tươi đẹp mà còn quan hệ thân thiết với nhau. Con người nơi đây sống rất đỗi bình dị và luôn chan hoà yêu thương. Họ gắn kết với nhau để cùng sinh tồn giữa nơi vách đá dựng ngang trời. Họ không bao giờ để cho con đường mòn trong bản, liên bản bị che lấp bởi bờ lau, cây dại. Họ lại càng không bao giờ để con đường dẫn lên cầu thang nhà mình bị cỏ cây che lấp. Cho nên con đường đó không chỉ là con đường đi mà còn là con đường nghĩa tình, con đường kết nối yêu thương. Câu thơ có điệp từ “cho” (động từ chỉ sự trao tặng, dâng hiến) đi cùng với hai biểu tượng “rừng” và “con đường” diễn tả sinh động về sự hào phóng, nghĩa tình của con người và thiên nhiên quê hương. Nói với con về “con đường” ấy hẳn nhà thơ đâu muốn con chỉ nhìn ra hình ảnh của cái “Con đường bỗng dưng quanh/ Bỗng dưng quành/ Bỗng dưng co mình lên núi vắng” (Những con đường núi) mà còn hướng con về cái kỉ niệm đẹp đẽ nhất trong đời của mình. Đó là hình ảnh “ngày cưới”. Kỉ niệm “đẹp nhất trên đời” của Y Phương gắn với quê hương. Bởi thế nói với con về quê hương chắc hẳn nhà thơ muốn đưa đứa con yêu dấu của mình trở về với mạch nguồn yêu thương của làng quê. Mạch nguồn “chùm kế ngọt” ấy là nơi khởi đầu cho mỗi cuộc đời, cho những tình cảm thương yêu. Trong những tình cảm ấy có lẽ “ngày cưới” là ngày đẹp đẽ nhất, ngày mà không thể nào quên. Nói với con về cái ngày đẹp nhất của đời mình, Y Phương như nhắc nhở con biết trân trọng, yêu thương, thuỷ chung với cái cội nguồn đầy ân tình ân nghĩa với mình và với cả con yêu nữa. Ba hình ảnh: con người – thiên nhiên – ngày cưới thoạt nhìn tưởng như rất rời rạc chẳng liên quan gì với nhau nhưng nghĩ kĩ thì lại rất tập trung. Nó đều là những hình ảnh kết tinh rực rỡ nhất trong cảm xúc thăng hoa của thi sĩ: con người của quê hương vừa chăm chỉ vừa tài hoa; thiên nhiên của quê hương vừa hào phóng vừa thơ mộng; hoài niệm đẹp đẽ của cuộc đời là ngày cưới. Người cha Y Phương như đang cộng hưởng tất cả những cái gì tinh tuý nhất của mình và quê hương để thức dậy trong đứa con tình yêu thương, thuỷ chung và gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Cái nôi lớn ấy là cội nguồn của cái nôi nhỏ. Nhà thơ “Nói với con” để cho con hiểu và nhớ về sự may mắn ấy. Con may mắn được sinh ra và lớn lên trong sự bao bọc của quê hương, dân tộc. Cái may mắn ấy không phải chỉ có con mà ngay cả cha mẹ cũng được thừa hưởng. Nhắc nhở, dặn dò con về cội nguồn, về truyền thống tốt đẹp của quê hương hẳn là Y Phương muốn con khắc cốt ghi xương để yêu thương và gắn bó.

4.
* Học sinh đảm bảo thực hiện một số yêu cầu sau:

a. Hình thức:

- Viết lùi vào một ô, các câu sau viết sát mép lề

- Đoạn văn quy nạp, không có câu mở đoạn

- Đủ số câu quy định: Khoảng 15 câu

b. Về nội dung: Học sinh có thể tham khảo mạch ý sau để làm rõ tình cảm sâu nặng của bé Thu đối với người cha trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”:

* Khi ông Sáu về đến nhà:

- Bé đang chơi ở nhà chòi, thấy người đàn ông có vết thẹo dài bên má phải đỏ ửng, giật giật trông rất sợ, bé đã “ giật mình, tròn mắt, ngơ ngác nhìn” một cách ngờ vực. Rồi bé mặt tái đi, vụt chạy, kêu thét lên. Điều này cho thấy, bé chưa chuẩn bị tâm lý từ trước rằng ba của bé sẽ về thăm nhà.

*Trong ba ngày ở nhà:

Ông Sáu luôn gần gũi, khao khát bé Thu gọi mình một tiếng “Ba”, song bé Thu đã có những hành động phản ứng ông một cách ương ngạnh, bướng bỉnh:

- Nói trổng ( nói trống không) “ vô ăn cơm”, “ “ cơm chín rồi”, “ cơm sôi rồi”, chắt nước giùm cái!” để tránh dùng từ “ Ba” vì từ “Ba” đối với bé rất thiêng liêng.

- Hành động “ hất cái trứng cá to vàng” ông sáu gắp vào chén cho nó và khi ông Sáu không kiềm chế được, đã đánh bé thì bé đã “ gắp lại trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”, bỏ về bà ngoại. Khi nhảy xuống xuồng, nó cố làm cho “ dây lòi tói kêu rổn rảng” để thể hiện phản ứng quyết liệt với ông Sáu.

* Những chi tiết trên cho thấy, sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh xa cách, trắc trở không đáng trách. Bạn đọc thông cảm với bé vì em còn quá nhỏ, chưa hiểu được thời gian năm tháng, sự khốc liệt của chiến tranh sẽ làm ngoại hình con người có thể biến dạng đi không giống tấm hình chụp thời trẻ của ông sáu. Hơn nữa, bé Thu chỉ biết mặt ba qua tấm hình chụp chung với má. Bé cũng chưa chuẩn bị tâm lý gặp lại ba khi ba của bé về nhà trước khi nhận nhiệm vụ mới.

* Thu nhận ra ông Sáu là người cha của mình ( trọng tâm)

- Buổi sáng cuối cùng trước phút ông Sáu lên đường, thái độ, hành động của Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn vì bé được bà ngoại giải thích vết thẹo trên má phải ông Sáu là do bị Tây bắn. Nó đã nằm im nghe bà kể, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn. Điều này cho thấy, bé ân hận, hối tiếc.

- Lúc chia tay với ông Sáu: Đôi mắt mở to mênh mông của bé nhìn với vẻ “ nghĩ ngợi sâu xa” và khi ông Sáu khẽ chào bé “ Thôi, ba đi nghe con!” thì bé đã kêu thét lên “ Ba..a...a...ba!”

* Tiếng “Ba” mà bé khao khát được gọi đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Tiếng kêu “ ba” xé tan cả không gian im lặng, xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đây là tiếng gọi “ ba” đầu tiên và cũng là cuối cùng của cuộc đời bé Thu vì sau đó ông Sáu đã hy sinh.

Hành động:

- Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như con sóc, nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba, vừa nói trong tiếng khóc, không cho ba đi.

- Nó “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai” vì muốn cảm nhận hết tình cảm của người cha mà nó khao khát bao năm nay. Đặc biệt, “nó hôn cả vết thẹo dài bên má của ba” mà nó rất sợ vì nó muốn chuộc lại lỗi lầm trong ba ngày đã có hành động, thái độ không phải với ông Sáu. Hiểu được nguyên nhân của vết thẹo dài, bé Thu càng yêu thương và tự hào vì ba của bé là một chiến sĩ cách mạng.

* Chiến tranh qua hình ảnh “ vết thẹo dài” đã không những không chia cắt được tình cảm cha con của người chiến sĩ cách mạng mà còn làm cho tình cảm đó trở nên sâu sắc, mãnh liệt hơn.

- Được bà và mẹ giải thích rằng ba đi, thống nhất đất nước, ba sẽ về Thu đã để cho ba đi và dặn ba về sẽ mua cho bé một cây lược. Điều này cho thấy bé hiểu được công việc mà cách mạng đang cần ba.

- Sau này biết tin ba mình hy sinh, bé Thu đã tiếp nối công việc của ba đang làm dở: trở thành cô giao liên thông minh, dũng cảm, nhiều lần cứu đoàn cán bộ cách mạng thoát khỏi phục kích của giặc.

*Kết đoạn:

- Với tấm lòng yêu mến, trân trọng tình cảm trẻ thơ, với sự am hiểu tâm lý trẻ em, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa tình cảm yêu cha sâu sắc, mãnh liệt, đầy bản lĩnh của đứa con người chiến sĩ cách mạng mà không làm mất đi vẻ hồn nhiên, ngây thơ của trẻ em, đồng thời khẳng định chiến tranh khốc liệt với hoàn cảnh đầy éo le, không chia rẽ được tình cảm cha con của những người chiến sĩ cách mạng.

c. Về ngữ pháp:

- Gạch chân đoạn văn và chú thích rõ ràng thành phần biệt lập ( có thể là tình thái từ, hoặc từ cảm thán, hoặc thành phần phụ chú, hoặc gọi đáp) và từ ngữ dùng làm phép lập, được sử dụng thích hợp trong đoạn văn.
 
Top Bottom