Chào các bạn
Hiện tại mình đang phải làm một bài luận về thi trắc nghiệm để tham gia tranh luận trên VTV6, có một số chi tiết cần mọi người giúp đỡ. Bạn nào biết thì giúp mình nhé
Mình cần tìm hiểu về thi trắc nghiệm: định nghĩa, lịch sử ra đời của phương pháp thi trắc nghiệm. Các ưu điểm, nhược điểm của phương pháp thi này. Hiện tại phương pháp thi trắc nghiệm đang được áp dụng rộng rãi ở những trường đại học nào ở Việt Nam và trên thế giới. Ngoài ra bạn biết thêm những gì thì cứ post vào đây. Mình xin cảm ơn
Tuỳ theo quan niệm của mỗi người mà có những câu trả lời khác nhau, nhưng xét một cách tổng quát thì:
“ Trắc nghiệm là một phép lượng giá cụ thể ở mức độ, khả năng thể hiện hành vi trong lĩnh vực nào đó”.
- Trắc nghiệm bao gồm 3 loại: loại quan sát, loại vấn đáp và loại viết.
+ Loại quan sát: giúp đánh giá các thao tác, hành vi, phản ứng vô thức, kỹ năng thực hành và kỹ năng nhận thức của người học.
+ Loại vấn đáp: có tác dụng đánh giá khả năng đáp ứng các câu hỏi được nêu một cách tự phát trong một tình huống cần kiểm tra, cũng thường được sử dụng khi sự tương tác giữa người hỏi và người trả lời để xác định khả năng nhận thức của người trả lời đó.
+ Loại viết: cho phép kiểm tra nhiều thí sinh cùng một lúc, thí sinh có thời gian cân nhắc nhiều hơn trả lời và qua đó có thể đánh giá một số loại tư duy ở mức độ cao. Loại viết cung cấp các bản ghi trả lời để người hỏi nghiên cứu kỹ khi chấm thi, dễ quản lý vì người chấm không tham gia trực tiếp vào bối cảnh kiểm tra.
Loại viết được chia làm 2 nhóm:
* Nhóm câu hỏi tự luận: là câu hỏi yêu cầu phải trả lời theo dạng mở, tức là thí sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài làm (thường dài) để giải quyết những vấn đề của câu hỏi đưa ra. Phương pháp này đã được sử dụng từ khá lâu trong các nhà trường.
* Nhóm câu hỏi trắc nghiệm khách quan (thường quen gọi tắt là trắc nghiệm): là phương pháp mà trong đó đề thi thường rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết để thí sinh có thể trả lời từng câu một cách ngắn gọn.
- Bên cạnh việc phân loại trắc nghiệm thì người viết đề thi cần chú ý đến việc đảm bảo thời gian cho một bài thi, cụ thể là:
+ Loại theo tốc độ: số lượng câu hỏi đưa ra được hạn chế thời gian để chỉ thí sinh nào làm nhanh nhất mới có thể làm xong bài. Như vậy, loại tốc độ nhằm đánh giá khả năng làm bài nhanh của thí sinh.
+ Loại không theo tốc độ: người viết thường cung cấp đủ thời gian để phần lớn thí sinh kịp suy nghĩ và làm hết bài với số lượng câu hỏi nhất định
- Trong trắc nghiệm khách quan lại có nhiều loại câu hỏi khác nhau, nhưng nhìn chung khi viết đề thi yêu cầu người ra đề phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp với thí sinh; chỉ hỏi kiến thức và sự kiện thay việc hỏi ý kiến riêng của thí sinh.
+ Đối với câu nhiều lựa chọn (có cách trả lời đơn giản và được sử dụng phổ biến nhất) thường có hai phần: phần dẫn thường nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi, phần sau là phương án để chọn thường được đánh dấu bằng các chữ cái a, b, c, d…. Trong các phương án để chọn chỉ có một phương án chọn là đúng hoặc đúng nhất; các phương án khác được đưa ra có tác dụng “gây nhiễu” đối với thí sinh; chỉ nên dùng 4 hoặc 5 phương án để chọn, các phương án sai phải hợp lý; không dùng câu phủ định, đặc biệt là phủ định hai lần và cũng không lạm dụng kiểu không phương án nào đúng hoặc mọi phương án đều đúng; tránh việc tạo phương án đúng khác bịêt so với các phương án khác (như: mô tả tỉ mỉ hoặc có dấu hiệu nghi ngờ …); các phương án đúng phải sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên.
Ví dụ: Hãy lựa chọn một phương án đúng trả lời cho câu hỏi sau:
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng Sài Gòn vào thời gian nào?
a. 01 / 5 / 1911 c. 06 / 5 / 1911
b. 02 / 6 / 1911 d. 05 / 6 / 1911.
Đáp án: d
Như vậy thí sinh nào nắm vững bài sẽ nhận ra đâu là đáp án đúng, đâu là đáp án gây nhiễu còn thí sinh không học bài sẽ khó hoặc không phân biệt được.
+ Câu ghép đôi: người ra đề cần hướng dẫn rõ yêu cầu của việc ghép đôi cho phù hợp, nên đánh số ở cột bên này và chữ ở cột bên kia; các dòng trên mỗi cột phải tương đương về nội dung hình thức, độ dài và cấu trúc ngữ pháp; tránh dùng các câu phủ định, đặc biệt là phủ định hai lần.
Câu ghép đôi đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột với nhau sao cho phù hợp vể ý nghĩa.
Ví dụ: Hãy tìm ở cột bên phải tên các nhà triết học và nối với quan điểm triết học ở cột bên trái để được đáp án đúng
1. Chủ nghĩa duy tâm khách quan a. P. Ăng ghen
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng b. J. Béccơly
3. Chủ nghĩa duy vật siêu hình c. Hêghen
4. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan d. Hêraclit và e. Phơ bách
Đáp án: 1 – a; 4 – b; 2 – a; 3 – e
- Câu điền khuyết: nêu một mệnh đề có khuyết một bộ phận, thí sinh phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào chỗ trống. Với loại câu này người viết cần thiết kế sao cho có thể trả lời bằng một từ đơn nhất mang tính đặc trưng (người, vật, địa điểm, thời gian hoặc khái niệm). Trong câu chỉ để một chỗ trống để điền đáp án, đồng thời cung cấp đủ thông tin để thí sinh chọn từ trả lời và chỉ có một lựa chọn là đúng.
Ví dụ: Ph. Ăng ghen viết: “Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển hơn mười [ ………………………]”. Hãy chọn từ dưới đây điền vào chỗ trống để hoàn thiện luận điểm trên.
a. Nhà phát minh; c. Tiến sỹ khoa học;
b. Trường đại học; d. Viện nghiên cứu.
Đáp án: Trường đại học.
- Câu đúng sai: thường đưa ra nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai.
Đối với loại câu hỏi này câu trả lời phải hoàn toàn đúng hoặc sai, không có trường hợp ngoại lệ. Câu hỏi sao cho thật đơn giản, tránh dùng câu phủ định đặc biệt là phủ định hai lần.
Ví dụ: Hồ Chí Minh xác định “Đạo đức là gốc của người cách mạng” đúng hay sai?
a. Đúng; b. Sai
Đáp án: a.
- Câu trả lời ngắn: là câu trắc nghiệm chỉ đòi hỏi thí sinh trả lời bằng nội dung rất ngắn.
Ví dụ: Theo Hồ Chí Minh, học để làm gì?
Đáp án: Làm người.
Chúng ta cần chú ý để có bài thi trắc nghiệm chất lượng, hiệu quả thì việc tổ chức kiểm tra trắc nghiệm thử là rất cần thiết, bởi qua đó sẽ đo được năng lực các thí sinh đồng thời sử dụng thí sinh để đo chất lượng của các câu trắc nghiệm và bài trắc nghiệm. Dựa vào kết quả thu được qua kiểm tra, chúng ta có thể phân loại thí sinh trong lớp, nó là thước đo để ra đề thi chính thức. Trong khi trắc nghiệm thử giáo viên phải tạo tình huống để mọi thí sinh đều coi lần trắc nghiệm đó là thật, là động lực giúp họ làm bài nghiêm túc, hết khả năng thì phép thử mới đạt yêu cầu. Tuy nhiên, trắc nghiệm thử chỉ có ý nghĩa về chuyên môn trong thiết kế và định cỡ trắc nghiệm mà thôi.
Nói tóm lại, muốn soạn được một đề thi trắc nghiệm có khả năng đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn thì việc tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm là một vấn đề rất cần thiết. Ở bài viết này tuy tác giả đã đưa ra các loại câu hỏi và cách ra một đề thi trắc nghiệm khách quan nhưng chắc chắn rằng không thể không khiếm khuyết, vì vậy tôi mong sớm nhận được sự đóng góp quý báu của bạn đọc để chúng ta cùng góp phần hướng tới sự thành công.