Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Hoá ra tài sắc là vô duyên, tình là tội lỗi. Xã hội cũ đã không chấp nhận sự thái quá, sự hoàn chỉnh trong cá tính con người, nhất là con người có ý thức và tự nhận thức được bản thân. Kiều phải nhận lấy biết bao oan ức xót xa cũng vì lẽ đó : tình yêu tưởng như đã cầm nắm được trong tay bỗng nhiên bị cướp mất; muốn được sống trong trinh bạch nhưng phải tiếp khách làng chơi ; vế với Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư hành hạ ; gắn bó với Từ Hải thì bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa. Có đến hai lần Kiều muốn quyên sinh nhưng lại không sao chết được, đau đớn như phận con kiến bò trong chảo nóng, muốn thoát ra mà không có cách nào thoát được. Kiều bị hành hạ bởi nỗi đau gặm nhấm suốt đoạn đời lưu lạc. Kiều đã không còn là mình. Nói cho thật đúng thì cũng có lúc Kiều được đối diện với chính mình nhưng thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn lầu xanh lần thứ nhất :
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đoàn tụ với chàng Kim, mỗi khi phải nhắc đến , nàng không khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân phận không chỉ một lần. Đó cũng là một cách tổng kết cuộc đời thông qua chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất, thuyết phục nhất.
2.Truyện Kiều - một tiếng thét phẫn nộ
Về phương diện nhật thức lí tính hoặc tư duy lí luận, Nguyễn Du có thể còn mơ hồ khi hướng nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trần thế vào một lực lượng huyền bí, siêu nhiên, nhưng trái tim nhà thơ có một cách "giải mã" riêng nhờ vào trực giác và vốn sống. Khả năng này ở nhà thơ khá mạnh. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người tài hoa, nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên. Và trên phương diện miêu tả nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, ngòi bút Nguyễn Du như có thần, không một tác phẩm văn chương đương thời nào sánh nổi. Bọn chúng dù không có quan hệ cụ thể với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống, những mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo ra một thứ thiên la địa võng. Trong số ấy có quân buôn thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa, lũ sai nha bắng nhắng, kẻ mũ cao áo dài đại diện cho công lý kĩ cương. Cách miêu tả của nhà thơ không phải là "vơ đũa cả nắm". Bởi thực ra trong đó vẫn còn những con người không hẳn đã xấu xa. Đó là những lương tâm ít nhiều còn trong sạch, như ả Mã Kiều trong nhà chứa, mụ quản gia của Hoạn Thư, viên quan xử án vụ Thúc Sinh vượt quyền cha lấy vợ lẽ, một vãi Giác Duyên tuy tu hành thoát tục nhưng vẫn biết cưu mang, cứu vớt những số phận oan khổ , trầm luân. Còn lại số đông rất đáng hỏi tội, như nàng Kiều đã có lần nhờ vào thanh gươm của Từ mà hỏi tội. Bản chất con buôn, biến người thành một thứ hàng thì không một ai đóng vai đạt như tên giám sinh họ Mã. Hắn bẻm mép và trai lơ nhưng lại tự lột mặt nạ bằng hành vi giao tiếp "trước thầy sau tớ" hỗn độn kiểu "cá đối bằng đầu", nhất là ti tiện "Cò kè bớt một thêm hai" để mua rẻ một thứ hàng vô giá chắc mẩm là có lãi mười mươi. Nhân vật bẩn thỉu này lẽ ra không đáng có mặt trong đời Kiều. Nhưng vì có tiền , hắn lại có thể múa may nhảy nhót "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng" để phán quyết. Tú Bà bày mưu bắt Kiều tiếp khách đã nhờ đến sự lì lợm, tráo trở của Sở Khanh. Bọn này mất hết cả nhân tính lẫn nhân hình. Sở Khanh phải đeo mặt nạ giả, còn nếu không, như bộ mặt thật của Tú Bà, không ai nhìn được. Thuý Kiều lần đầu nhìn thấy đã không khỏi ngạc nhiên vì sự phì nộn, nhất là vì cái màu da như da người chết của mụ. Cái đắc chí của mụ là cái đắc chí hèn mọn của kẻ tiểu nhân. Khi bắt được Kiều bỏ trốn , y thật lòng hả dạ :
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Chứng kiến một bông hoa non nớt và trinh bạch là nàng Kiều lần đầu tiên phải chịu cảnh "Uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa", mụ đâu có một chút mủi lòng. Nếu không có sự cầu xin của Kiều, nhất là câu "Phận tôi đã vậy vốn người để đâu" thì Tú Bà đâu có sực tỉnh để dễ bề buông tha. Nhưng buông tha roi vọt để làm cái việc còn đớn đau hơn roi vọt là tiếp khách làng chơi, mụ đã đạt được cái đích cuối cùng. Nhưng người đàn bà trong buổi báo oán sau này xếp hàng thứ nhất không phải là Tú Bà, mà là vợ cả của Thúc Sinh, họ Hoạn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đối với Tú Bà, Kiều biết người đó là ai (và đã một lần đánh được vào tâm lý). Còn Hoạn Thư có mưu chước khác vì con người y cũng khác. Trước con người này, Kiều bất lực trong sự đối phó. Chẳng hạn như khi bắt Kiều hầu rượu :
Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Kiều không kịp đề phòng, kể cả sau đó việc hàn huyên tâm sự với Thúc Sinh, Hoạn Thư tạo tình huống để lừa bắt quả tang. Lần thứ hai, Thuý Kiều thua cuộc. Nàng không khỏi thở dài mà kinh hãi "Người đâu sâu sắc nước đời". Kiều đã nghĩ đúng, nghĩ đúng mà hoảng hồn về cái nơi "miệng hùm nọc rắn". Thoát khỏi hai cạm bẫy là lầu xanh và nhà Hoạn Thư, đến được với Từ Hải, Kiều như một người leo núi cần đến sự nghỉ ngơi. Trai anh hùng gái thuyền quyên đã là một mô hình lý tưởng. Không dễ mấy ai hiểu và yêu Kiều - một cô gái lầu xanh - như Từ Hải. Còn với nàng Kiều, có bao giờ hạnh phúc hiếm hoi lại đưọc che chở bằng một thanh gươm?
Nhưng sự tráo trở của một thứ Sở Khanh được diễn lại. Tài thao lược kinh luân của viên tổng đốc Hồ Tôn Hiến chẳng qua cũng chỉ là sự lọc lừa được nâng cấp, nó đánh vào lòng tin của một người cả tin. Người cả tin ấy là nàng Kiều sau khi đã trải qua bao "gió dập sóng va", một kẻ lưu lạc xa nhà với một quê hương đêm ngày tưởng nhớ. Nó lại nhân danh một quyền lực tối cao để mà hứa hẹn. Mũi tên của Hồ Tôn Hiến đã nhằm vào trúng đích. Đó là Kiều, một con người tưởng như đã từng trải, dạn dày, nhưng vẫn còn một góc khuất ảo tưởng, ngây thơ. Bị trúng kế mà khuyên Từ Hải ra hàng, nàng biết đâu đã đốt cháy không chỉ sự nghiệp của Từ mà đốt luôn những gì còn sót lại - chút hi vọng của mình được nhen nhóm lên sau hàng chục năm trời lưu lạc. Vì vậy, có lẽ chưa có cái đau đớn nào như lần này. Cũng vẫn là tiếng đàn, lần này gẩy lên không chỉ "như khóc như than" mà đã là "bốn dây rỏ máu", bởi nó không còn là xót xa mà đã căm giận, oán hờn. Vì ảo tưởng và ngây thơ mà Kiều đã giết Từ Hải và vô hình chung cũng là tự giết mình. Vì ảo tưởng ngây thơ mà nàng đã đặt tất cả niềm tin vào kẻ chức trọng quyền cao nhưng lòng lang dạ sói, nham hiểm khôn lường. Sa sẩy lần này, Kiều không còn có cách nào để có thể đứng lên được nữa. Vì vậy mà cái đợi chờ nàng phía trước là "nấm mồ hồng nhan", là con sông Tiền Đường mà Đạm Tiên đã hẹn hò từ mười lăm năm trước.
3. "Truyện Kiều" - một giấc mơ
Cảm hứng nhân văn bao trùm lên tư tưởng Truyện Kiều không chỉ thể hiện trên hai bình diện trong đời thực là tiếng kêu thương hay tiếng thét phẫn nộ ; nó còn ấp ủ những giấc mơ. Đây chính là mặt sáng, nguồn ấm của cuộc đời, nhất là cuộc đời tăm tối. Trước hết là giấc mơ tình yêu.
Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỉ truyện Nôm, vấn đề này đã được đặt ra khá táo bạo. Cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sự nhập cuộc vào dòng chảy chung của một thời đại văn chương. Nhưng đồng thời, tác phẩm của Nguyễn Du còn là sự nâng cấp, vươn tới một đỉnh cao, ít có tác phẩm đương thời nào so sánh được. Không chỉ dừng lại ở một tình cảm nhất thời bồng bột, sự vượt lên của Truyện Kiều là ở sức đi xa. Nó không chỉ diễn ra với độ dài suốt mười lăm năm lưu lạc mà còn là sự khơi trong gạn đục tri âm. Tình yêu vững bền bởi nó vị tha hơn là vị kỉ. Chẳng hạn, Kiều khi gặp lại Kim Trọng sau này, nàng đã nói " Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa" ;nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là trong sạch, bởi một người biết quyền biến " lấy hiếu làm trinh" thì sự trong sạch ấy giống như bông sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ý nghĩa của câu "Hoa tàn mà lại thêm tươi" là sự nhìn nhận trên khía cạnh tinh thần ấy. Đây là cái nhìn nhân văn, một cái nhìn vừa đúng, vừa sâu trong một xã hội khắt khe nhiều định kiến. Trước đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần nhớ tới cố hương là bấy nhiêu lần Kiều không quên được cố nhân. "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng", câu thơ hiện thực hoá, hình tượng hoá một nỗi niềm mảnh mai mà bền chắc. Còn với Kim Trọng, dù đã đỗ đạt và yên bề gia thất nhưng khoảng thiếu hụt của đời chàng và lòng chàng vẫn là hình bóng người xưa. Vì vậy mà Kim Trọng không lúc nào nguôi yên, chỉ muốn "Rắp mong treo ấn từ quan. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua" để đi tìm một thứ "bóng chim tăm cá". Mối tình ấy sở dĩ luôn mãi xanh tươi vì nó bước qua cái vòng cấm khắt khe lễ giáo, vì nó là mối tình đầu. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ trong hội Đạp Thanh, một tình yêu đã chớm nở. Để nói hộ cái tâm trạng xốn xang hồi hộp của "tình trong như đã" dù hai người vẫn còn ý tứ, rụt rè, Nguyễn Du đã dùng một phác thảo thiên nhiên nói hộ. Vẫn là nhịp cầu nho nhỏ như lúc gặp Đạm Tiên nhưng nó như đã có hồn. Chỉ thêm một chút bóng chiều với dịu dàng tơ liễu, người và người đã man mác vấn vương. Sau này có lần Kiều chủ động đến với Kim Trọng. Cuộc gặp lần ấy, với Kim Trọng, nó giống như một giấc chiêm bao và đẹp như trong mộng. Rất giống với cuộc gặp ở Phan Trần : "Lan mừng huệ, huệ mùng lan. Ngọc quan khấp khởi, từ nhan ngập ngừng", nhưng cô gái trong Phan Trần chưa thể làm cái việc như Kiều đã làm "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình". Phải nói tình yêu Kiều - Kim như một thứ rượu say người, có sức quyến rũ tất cả những ai một lần đọc nó. Chẳng phải người xưa vì đứng trên lập trường của bức tường lễ giáo, từng răn đe :
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều
Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lý, khát vọng tự do. Trong bối cảnh cuộc đời cũ, bao nhiêu bất công, oan khuất đè nặng lên bao kiếp người, nhất là những người lương thiện, những kẻ tài hoa. Nếu chấp nhận nó bằng cách khoanh tay bất lực hay tự an ủi bằng mọi thứ bùa mê thì cuộc sống đầy nghịch lý ấy đâu phải cuộc sống đích thực của con người. Chính vì vậy mà thanh gươm của Từ Hải phải vung lên để bênh vực những thân phận "con sâu cái kiến". Cuộc sống ấy cần đến thanh gươm ấy. Thanh gươm của Từ như một thứ tuyên ngôn về lẽ phải "Anh hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Vì vậy còn gì vui hơn cuộc gặp gỡ trùng phùng giữa Kiều và Từ Hải sau bao ngày xa cách. Ấy thế mà chỉ nghe qua nỗi oan khuất của Kiều " Khi Vô Tích khi Lâm Tri", cơn giận của Từ đã không sao kìm giữ nổi. Là hiện thân của công lý, Từ không dừng lại ở sự cảm thông. Cần đến hành động để can thiệp,Từ đã "nghiêm quân tuyển tướng" ra tay lập tức. Vượt lên quan hệ cá nhân, việc làm ấy có tính xã hội. Buổi xử án diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, đặc biệt là trước khi báo oán, Kiều đã dõng dạc :
Nàng rằng: ***g lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.