Thuyết Minh về tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

T

taitutungtien




Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là hai tác phẩm na ná như nhau. Hiện tượng ấy không phải là không gây phiền toái, nhất là với Nguyễn Du. Nếu không vượt được tác phẩm xuất hiện từ trước, nó chỉ còn là sự mô phỏng. Khá hơn chút nữa, giá trị cũng chỉ còn là sự trau chuốt, gia công, cho dù ở đây có sự chuyển đổi ngôn ngữ và thể loại. Cảm giác "nhuận sắc" này dễ có ở nơi người đọc đã đành mà tác giả Truyện Kiều phải đối mặt với không ít khó khăn. Có lẽ, do ý thức được khó khăn này - cái khó là tránh cho người đọc hiểu rằng đây chỉ là một sự chuyển dịch ngôn ngữ đơn thuần - mà tác phẩm của Nguyễn Du như một sự chỉ dẫn để không mang một cái tên đơn. Truyện Kiều là tên thường gọi căn cứ vào hình tượng của nhân vật trung tâm ; còn ý đồ sáng tạo của Nguyễn Du có lẽ gửi vào cái tên chính, tên gốc là Đoạn trường tân thanh. "Đoạn trường" (đứt ruột) là nguyên nghĩa của Kim Vân Kiều truyện. Còn "tân thanh" (tiếng kêu mới) là sự nâng cấp thăng hoa. Dấu vết của "cổ thư" vì vậy không phải là không có, nhưng nó chỉ còn là dáng dấp, một thứ hồi ức xa xăm, nó thuộc về quá khứ.

Thay thế cho những ấn tượng mờ nhoè dễ lẫn ấy là một hệ thống cốt truyện mà Nguyễn Du có thêm bớt với nền của bức tranh bằng độ đậm nhạt, sáng tối khác đi để từ đó một thế giới nhân vật hiện lên vừa đa dạng, vừa rõ nét, mới mẻ đến ngạc nhiên. Thành công đột xuất này phải nhờ vào tài năng khắc họa, vào nghệ thuật dẫn truyện, vào sự tinh tế của ngôn ngữ văn chương của nghệ sĩ thiên tài - nghĩa là một bản lĩnh. Bản lĩnh ấy truyền cho tác phẩm một linh hồn, một thông điệp nghệ thuật và tư tưởng với những hàm nghĩa nhiều tầng, chủ yếu là trên các khía cạnh sau đây.

1.Một tiếng kêu thương

2.Một tiếng thét phẫn nộ

3."Truyện Kiều" - một giấc mơ

4.Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều
1. "Truyện Kiều" - một tiếng kêu thương

Truyện Kiều trước hết và chủ yếu là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột cho một mà cũng là cho mọi số kiếp bị đọa đày. Chủ đề "hồng nhan bạc mệnh" ta đã từng gặp và đã quen gặp không chỉ trong văn học trung đại nước ta mà cả ở văn học phương Đông, đặc biệt là văn học Trung Quốc. Vậy thì có gì mới ở nội dung của tiếng kêu thương ? Thật ra, ngay từ Văn tế thập loại chúng sinh, khi khóc thương cho bao nhiêu cuộc đời bất hạnh, tuy không thể dừng lâu trước một hệ thống nạn nhân, nhà thơ đã lưu ý người đọc về một hạng người - hạng người "buôn nguyệt bán hoa". Cũng như với các hạng người khác, Nguyễn Du có tiếng khóc riêng ; nhưng tiếng khóc về hạng người "nhỡ nhàng một kiếp" trong sự xót tủi có cái cay đắng đến ngỡ ngàng.


Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?


Về hạng người này, một lần nữa Nguyễn Du đã tái hiện trong Truyện Kiều khi nói về nấm mộ của một nàng ca kĩ : Đạm Tiên. Oan hồn của hạng người ấy cứ trở đi trở lại bao lần với một câu hỏi không có lời giải đáp. Dự cảm xót xa ấy không loại trừ một ai, kể cả Thuý Kiều trước cả khi nàng gặp nấm mồ vô chủ. Điều ấy gửi vào cung đàn có tên là "Bạc mệnh". Lần đầu tiên nghe tiếng đàn ấy, Kim Trọng không hiểu : "Rằng hay thì thật là hay. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!". Mười năm sau, Kiều đã giải thích cho chàng, nhưng cách giải thích thưc chất cũng mơ hồ như một cảm nhận chủ quan, khi : "Nàng rằng : vì chút nghề chơi. Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu". Hình như, có một sợi dây xuyên suốt nối liền các cuộc đời hồng nhan sau trước. Vậy thì tại sao như thế, vì sao lại "Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?". Có thể nói, Nguyễn Du đã không giải thích được điều oan nghiệt này( "Cổ kim hận sự thiên nan vấn" - Độc Tiểu Thanh kí), nhưng về trực giác, ông đã nhận ra quy luật phũ phàng đã và còn đang tác động lên từng con người cụ thể. Con người ấy là nàng Kiều. Kiều đại diện cho cái đẹp toàn vẹn, cái đẹp tối đa, trước hết là nhan sắc. Để khắc hoạ chân dung này, dù là với bút pháp ước lệ chứ chưa phải là tả thực, nhà thơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu đằm trong tâm trí chúng ta. Một phương diện khắc hoạ này là nhà thơ đã đưa Thuý Vân ra làm đối sánh. Nhan sắc của Vân nếu đẹp thì cũng chỉ ở mức "khả ái" đáng yêu, còn ở Thuý Kiều dứt khoát là hơn Vân một bậc. Liễu phải hờn giận, hoa phải ghen ghét, cái đẹp "tót vời" tạo ra bao nhiêu đố kị. Có nhan sắc đã quý, thêm tài năng, nhan sắc càng lộng lẫy, kiêu sa. Sắc và tài ấy chung quy cũng là cái tình. Sự "sắc sảo mặn mà" của Kiều là cái tình đời luôn dào dạt, thiết tha, luôn quan tâm đến mọi buồn vui của con người và cuộc sống. Trước một nấm mồ vô chủ, mọi người đi qua nhưng Kiều dừng lại. Không chỉ hỏi han, nàng còn nhỏ lệ. Khóc người mà thương mình, thương người như thương mình, sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm dưới mộ. Đạm Tiên dù sao cũng là một người xa lạ, mà tình cảm của Kiều còn thế nói gì đến cha và em. Nếu chỉ vì hiếu, nghĩa, Kiều chưa hẳn đã bán mình. Sức mạnh khiến nàng kiên quyết và chủ động "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha" phải là một tình thương. Tình thương ấy lên tới đỉnh cao : thương người hơn thương mình mới dám hành động như thế. Rồi sau đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần Kiều nhớ nhà là bấy nhiêu lần nỗi nhớ đi liền với niềm thương cứ trào lên khiến người đọc chúng ta không dễ cầm nước mắt. Nhưng rốt cuộc,tài và tình ấy, bông hoa vô giá của cuộc đời ấy lại chính là nguyên nhân tiền định dẫn đến nỗi "kì oan" là có tên trong sổ đoạn trường. Sở dĩ Thuý Kiều bị đày đoạ, theo nhà sư Tam Hợp thì :
 
T

taitutungtien


Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.


Hoá ra tài sắc là vô duyên, tình là tội lỗi. Xã hội cũ đã không chấp nhận sự thái quá, sự hoàn chỉnh trong cá tính con người, nhất là con người có ý thức và tự nhận thức được bản thân. Kiều phải nhận lấy biết bao oan ức xót xa cũng vì lẽ đó : tình yêu tưởng như đã cầm nắm được trong tay bỗng nhiên bị cướp mất; muốn được sống trong trinh bạch nhưng phải tiếp khách làng chơi ; vế với Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư hành hạ ; gắn bó với Từ Hải thì bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa. Có đến hai lần Kiều muốn quyên sinh nhưng lại không sao chết được, đau đớn như phận con kiến bò trong chảo nóng, muốn thoát ra mà không có cách nào thoát được. Kiều bị hành hạ bởi nỗi đau gặm nhấm suốt đoạn đời lưu lạc. Kiều đã không còn là mình. Nói cho thật đúng thì cũng có lúc Kiều được đối diện với chính mình nhưng thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn lầu xanh lần thứ nhất :


Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.


Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đoàn tụ với chàng Kim, mỗi khi phải nhắc đến , nàng không khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân phận không chỉ một lần. Đó cũng là một cách tổng kết cuộc đời thông qua chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất, thuyết phục nhất.
2.Truyện Kiều - một tiếng thét phẫn nộ

Về phương diện nhật thức lí tính hoặc tư duy lí luận, Nguyễn Du có thể còn mơ hồ khi hướng nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trần thế vào một lực lượng huyền bí, siêu nhiên, nhưng trái tim nhà thơ có một cách "giải mã" riêng nhờ vào trực giác và vốn sống. Khả năng này ở nhà thơ khá mạnh. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người tài hoa, nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên. Và trên phương diện miêu tả nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, ngòi bút Nguyễn Du như có thần, không một tác phẩm văn chương đương thời nào sánh nổi. Bọn chúng dù không có quan hệ cụ thể với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống, những mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo ra một thứ thiên la địa võng. Trong số ấy có quân buôn thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa, lũ sai nha bắng nhắng, kẻ mũ cao áo dài đại diện cho công lý kĩ cương. Cách miêu tả của nhà thơ không phải là "vơ đũa cả nắm". Bởi thực ra trong đó vẫn còn những con người không hẳn đã xấu xa. Đó là những lương tâm ít nhiều còn trong sạch, như ả Mã Kiều trong nhà chứa, mụ quản gia của Hoạn Thư, viên quan xử án vụ Thúc Sinh vượt quyền cha lấy vợ lẽ, một vãi Giác Duyên tuy tu hành thoát tục nhưng vẫn biết cưu mang, cứu vớt những số phận oan khổ , trầm luân. Còn lại số đông rất đáng hỏi tội, như nàng Kiều đã có lần nhờ vào thanh gươm của Từ mà hỏi tội. Bản chất con buôn, biến người thành một thứ hàng thì không một ai đóng vai đạt như tên giám sinh họ Mã. Hắn bẻm mép và trai lơ nhưng lại tự lột mặt nạ bằng hành vi giao tiếp "trước thầy sau tớ" hỗn độn kiểu "cá đối bằng đầu", nhất là ti tiện "Cò kè bớt một thêm hai" để mua rẻ một thứ hàng vô giá chắc mẩm là có lãi mười mươi. Nhân vật bẩn thỉu này lẽ ra không đáng có mặt trong đời Kiều. Nhưng vì có tiền , hắn lại có thể múa may nhảy nhót "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng" để phán quyết. Tú Bà bày mưu bắt Kiều tiếp khách đã nhờ đến sự lì lợm, tráo trở của Sở Khanh. Bọn này mất hết cả nhân tính lẫn nhân hình. Sở Khanh phải đeo mặt nạ giả, còn nếu không, như bộ mặt thật của Tú Bà, không ai nhìn được. Thuý Kiều lần đầu nhìn thấy đã không khỏi ngạc nhiên vì sự phì nộn, nhất là vì cái màu da như da người chết của mụ. Cái đắc chí của mụ là cái đắc chí hèn mọn của kẻ tiểu nhân. Khi bắt được Kiều bỏ trốn , y thật lòng hả dạ :


Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.


Chứng kiến một bông hoa non nớt và trinh bạch là nàng Kiều lần đầu tiên phải chịu cảnh "Uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa", mụ đâu có một chút mủi lòng. Nếu không có sự cầu xin của Kiều, nhất là câu "Phận tôi đã vậy vốn người để đâu" thì Tú Bà đâu có sực tỉnh để dễ bề buông tha. Nhưng buông tha roi vọt để làm cái việc còn đớn đau hơn roi vọt là tiếp khách làng chơi, mụ đã đạt được cái đích cuối cùng. Nhưng người đàn bà trong buổi báo oán sau này xếp hàng thứ nhất không phải là Tú Bà, mà là vợ cả của Thúc Sinh, họ Hoạn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đối với Tú Bà, Kiều biết người đó là ai (và đã một lần đánh được vào tâm lý). Còn Hoạn Thư có mưu chước khác vì con người y cũng khác. Trước con người này, Kiều bất lực trong sự đối phó. Chẳng hạn như khi bắt Kiều hầu rượu :


Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.


Kiều không kịp đề phòng, kể cả sau đó việc hàn huyên tâm sự với Thúc Sinh, Hoạn Thư tạo tình huống để lừa bắt quả tang. Lần thứ hai, Thuý Kiều thua cuộc. Nàng không khỏi thở dài mà kinh hãi "Người đâu sâu sắc nước đời". Kiều đã nghĩ đúng, nghĩ đúng mà hoảng hồn về cái nơi "miệng hùm nọc rắn". Thoát khỏi hai cạm bẫy là lầu xanh và nhà Hoạn Thư, đến được với Từ Hải, Kiều như một người leo núi cần đến sự nghỉ ngơi. Trai anh hùng gái thuyền quyên đã là một mô hình lý tưởng. Không dễ mấy ai hiểu và yêu Kiều - một cô gái lầu xanh - như Từ Hải. Còn với nàng Kiều, có bao giờ hạnh phúc hiếm hoi lại đưọc che chở bằng một thanh gươm?

Nhưng sự tráo trở của một thứ Sở Khanh được diễn lại. Tài thao lược kinh luân của viên tổng đốc Hồ Tôn Hiến chẳng qua cũng chỉ là sự lọc lừa được nâng cấp, nó đánh vào lòng tin của một người cả tin. Người cả tin ấy là nàng Kiều sau khi đã trải qua bao "gió dập sóng va", một kẻ lưu lạc xa nhà với một quê hương đêm ngày tưởng nhớ. Nó lại nhân danh một quyền lực tối cao để mà hứa hẹn. Mũi tên của Hồ Tôn Hiến đã nhằm vào trúng đích. Đó là Kiều, một con người tưởng như đã từng trải, dạn dày, nhưng vẫn còn một góc khuất ảo tưởng, ngây thơ. Bị trúng kế mà khuyên Từ Hải ra hàng, nàng biết đâu đã đốt cháy không chỉ sự nghiệp của Từ mà đốt luôn những gì còn sót lại - chút hi vọng của mình được nhen nhóm lên sau hàng chục năm trời lưu lạc. Vì vậy, có lẽ chưa có cái đau đớn nào như lần này. Cũng vẫn là tiếng đàn, lần này gẩy lên không chỉ "như khóc như than" mà đã là "bốn dây rỏ máu", bởi nó không còn là xót xa mà đã căm giận, oán hờn. Vì ảo tưởng và ngây thơ mà Kiều đã giết Từ Hải và vô hình chung cũng là tự giết mình. Vì ảo tưởng ngây thơ mà nàng đã đặt tất cả niềm tin vào kẻ chức trọng quyền cao nhưng lòng lang dạ sói, nham hiểm khôn lường. Sa sẩy lần này, Kiều không còn có cách nào để có thể đứng lên được nữa. Vì vậy mà cái đợi chờ nàng phía trước là "nấm mồ hồng nhan", là con sông Tiền Đường mà Đạm Tiên đã hẹn hò từ mười lăm năm trước.
3. "Truyện Kiều" - một giấc mơ

Cảm hứng nhân văn bao trùm lên tư tưởng Truyện Kiều không chỉ thể hiện trên hai bình diện trong đời thực là tiếng kêu thương hay tiếng thét phẫn nộ ; nó còn ấp ủ những giấc mơ. Đây chính là mặt sáng, nguồn ấm của cuộc đời, nhất là cuộc đời tăm tối. Trước hết là giấc mơ tình yêu.

Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỉ truyện Nôm, vấn đề này đã được đặt ra khá táo bạo. Cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sự nhập cuộc vào dòng chảy chung của một thời đại văn chương. Nhưng đồng thời, tác phẩm của Nguyễn Du còn là sự nâng cấp, vươn tới một đỉnh cao, ít có tác phẩm đương thời nào so sánh được. Không chỉ dừng lại ở một tình cảm nhất thời bồng bột, sự vượt lên của Truyện Kiều là ở sức đi xa. Nó không chỉ diễn ra với độ dài suốt mười lăm năm lưu lạc mà còn là sự khơi trong gạn đục tri âm. Tình yêu vững bền bởi nó vị tha hơn là vị kỉ. Chẳng hạn, Kiều khi gặp lại Kim Trọng sau này, nàng đã nói " Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa" ;nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là trong sạch, bởi một người biết quyền biến " lấy hiếu làm trinh" thì sự trong sạch ấy giống như bông sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ý nghĩa của câu "Hoa tàn mà lại thêm tươi" là sự nhìn nhận trên khía cạnh tinh thần ấy. Đây là cái nhìn nhân văn, một cái nhìn vừa đúng, vừa sâu trong một xã hội khắt khe nhiều định kiến. Trước đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần nhớ tới cố hương là bấy nhiêu lần Kiều không quên được cố nhân. "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng", câu thơ hiện thực hoá, hình tượng hoá một nỗi niềm mảnh mai mà bền chắc. Còn với Kim Trọng, dù đã đỗ đạt và yên bề gia thất nhưng khoảng thiếu hụt của đời chàng và lòng chàng vẫn là hình bóng người xưa. Vì vậy mà Kim Trọng không lúc nào nguôi yên, chỉ muốn "Rắp mong treo ấn từ quan. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua" để đi tìm một thứ "bóng chim tăm cá". Mối tình ấy sở dĩ luôn mãi xanh tươi vì nó bước qua cái vòng cấm khắt khe lễ giáo, vì nó là mối tình đầu. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ trong hội Đạp Thanh, một tình yêu đã chớm nở. Để nói hộ cái tâm trạng xốn xang hồi hộp của "tình trong như đã" dù hai người vẫn còn ý tứ, rụt rè, Nguyễn Du đã dùng một phác thảo thiên nhiên nói hộ. Vẫn là nhịp cầu nho nhỏ như lúc gặp Đạm Tiên nhưng nó như đã có hồn. Chỉ thêm một chút bóng chiều với dịu dàng tơ liễu, người và người đã man mác vấn vương. Sau này có lần Kiều chủ động đến với Kim Trọng. Cuộc gặp lần ấy, với Kim Trọng, nó giống như một giấc chiêm bao và đẹp như trong mộng. Rất giống với cuộc gặp ở Phan Trần : "Lan mừng huệ, huệ mùng lan. Ngọc quan khấp khởi, từ nhan ngập ngừng", nhưng cô gái trong Phan Trần chưa thể làm cái việc như Kiều đã làm "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình". Phải nói tình yêu Kiều - Kim như một thứ rượu say người, có sức quyến rũ tất cả những ai một lần đọc nó. Chẳng phải người xưa vì đứng trên lập trường của bức tường lễ giáo, từng răn đe :


Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều


Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lý, khát vọng tự do. Trong bối cảnh cuộc đời cũ, bao nhiêu bất công, oan khuất đè nặng lên bao kiếp người, nhất là những người lương thiện, những kẻ tài hoa. Nếu chấp nhận nó bằng cách khoanh tay bất lực hay tự an ủi bằng mọi thứ bùa mê thì cuộc sống đầy nghịch lý ấy đâu phải cuộc sống đích thực của con người. Chính vì vậy mà thanh gươm của Từ Hải phải vung lên để bênh vực những thân phận "con sâu cái kiến". Cuộc sống ấy cần đến thanh gươm ấy. Thanh gươm của Từ như một thứ tuyên ngôn về lẽ phải "Anh hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Vì vậy còn gì vui hơn cuộc gặp gỡ trùng phùng giữa Kiều và Từ Hải sau bao ngày xa cách. Ấy thế mà chỉ nghe qua nỗi oan khuất của Kiều " Khi Vô Tích khi Lâm Tri", cơn giận của Từ đã không sao kìm giữ nổi. Là hiện thân của công lý, Từ không dừng lại ở sự cảm thông. Cần đến hành động để can thiệp,Từ đã "nghiêm quân tuyển tướng" ra tay lập tức. Vượt lên quan hệ cá nhân, việc làm ấy có tính xã hội. Buổi xử án diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, đặc biệt là trước khi báo oán, Kiều đã dõng dạc :


Nàng rằng: ***g lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.
 
T

taitutungtien

Tiếp nè
Việc làm ấy của Kiều không chỉ được Từ Hải và ba quân ủng hộ mà mãi về sau nó còn được ngợi khen trong dư luận. Kẻ lại già họ Đô trong phủ đường của Kim Trọng kể lại cái việc xảy ra đã hơn mười năm này và không quên thêm lời bình luận "Đã nên có nghĩa có nhân". Tuy nhiên, công lý ấy xét đến cùng không phải mục đích. Nó chỉ là một thứ phương tiện để con người đi tới tự do. Bởi hạnh phúc thực sự của con người bao giờ cũng gắn với điều kiện tự do. Trong Truyện Kiều, Từ Hải đã nghĩ đến tự do của "muôn người" trước khi nghĩ đến tự do của "một người". Không thế thì vì sao "Nửa năm hương lửa đương nồng" với người tri kỷ,"Từ đã động lòng bốn phương"? Dường như cánh chim đại bàng ấy luôn bầu bạn với trời xanh. Một mình một ngựa giữa mênh mông trời bể, không có địa chỉ rõ ràng, không người thân vì "Theo càng thêm bận biết là đi đâu", Từ Hải đến với những người cần đến thanh gươm để mà vùng vẫy. Không có gì ràng buộc đưọc Từ, kể cả tình yêu. Từ đi, Kiều cũng xin đi, nhưng người anh hùng không muốn "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Nghe lời tri kỷ, Từ cởi giáp ra hàng. Đó không phải hành động nhất quán của người anh hùng cái thế. Ngược lại, trong sự cân nhắc, đắn đo, hai cuộc sống được đặt lên bàn cân so sánh. Bản chất của cuộc đời Từ, lý tưởng của Từ là ánh sáng. Nó không chấp nhận sự hoà nhập với bóng đêm. Bản chất Từ là con người tự do, cho nên chỉ cần nghĩ đến khuôn phép, nhất là khuôn phép của triều đình là đã khó chịu, vì cái cảm giác đụng đến chỗ nào cũng vướng "Áo xiêm ràng buộc lấy nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?". Nhưng cuối cùng Từ phải "Đem thân bách chiến làm tôi triều đình" chẳng qua vì quá tin Kiều. Cái chết của nhân vật gần giống với huyền thoại này là vì một bài học đắt giá không sao sửa chữa được. Đó là nhân chứng về một lần ngộ nhận của con cá kình ngoài biển bị mắc cạn trong ao. Bị cầm tù, điều này đồng nghĩa với cái chết, cho dù chỉ là con đường đi đến sự cầm tù đó mà thôi.

Nói về hạn chế trong tư tưởng của Truyện Kiều thì sự "bó thân về với triều đình" của Từ là một trong những "bất cập" của Nguyễn Du. Nhà thơ, dù là một nghệ sĩ thiên tài, cũng đã không điều chỉnh được ước mơ với hiện thực. Bởi cái mong muốn, cái khao khát của con người này không thể hoà nhập được với kỷ cương. Kết thúc Truyện Kiều giống như một định mệnh nghiệt ngã. Mở ra là một triều đại "Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", gấp cuốn sách lại là "thắng lợi" của Hồ Tôn Hiến. Sư nghiệp của Từ Hải có là một con sóng, dù sóng lớn đến đâu nhưng rốt cuộc mặt nước tù đọng lưu niên cũng không có gì thay đổi. Cái nhìn bế tắc này là sự giằng co lịch sử hay chính mâu thuẫn của Nguyễn Du ? Vì bế tắc nên dù thương xót cho Kiều biết mấy nhà thơ cũng đành đổ lỗi cho số mệnh "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau". Về trực giác, bằng trái tim, Nguyễn Du nhìn thấy một cơ chế, những thế lực bạo tàn cụ thể, nhưng trong tư duy, khi lý giải, cái ác cái xấu vẫn cứ mơ hồ, không rõ là ai. Đó là chưa nói đến những hạn chế khác trong nhận thức của Nguyễn Du như vai trò của thần quyền, của Nho giáo, Phật giáo. Ngưỡng mộ, đồng tình với nhan sắc, với tài hoa nhưng rồi chính Nguyễn Du lại phủ nhận nó. Nhan sắc là "vô duyên", còn tài hoa thì "Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần". Tuy vậy, xét đến cùng, hạn chế tư tưởng trong Truyện Kiều cũng đồng thời là hạn chế của nhiều truyện Nôm nói riêng, của văn chương trung đại nói chung. Đó là cái ngưỡng không ai có thể vượt qua, vì lịch sử chưa có những tiên đề cho giải pháp.
4. Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều

Trở lại điểm bắt đầu của Truyện Kiều là Kim Vân Kiều truyện. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại tiểu thuyết viết bằng văn xuôi bạch thoại của Trung Quốc. Đề tài của loại tiểu thuyết này là tài tử - giai nhân, thư sinh - kĩ nữ vốn đã thành truyền thống từ đời Đường, phát triển mạnh trong thời Minh, Thanh. Không chỉ khuôn sáo, công thức về mô típ truyện, riêng về mặt tư tưởng, đó là sự dung hoà giữa nhu cầu buông thả tình cảm kiểu thị dân với việc ngợi ca, khẳng định lễ giáo phong kiến. Ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có Truyện Kiều, những mệnh đề mang tính xung đột như "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc mệnh" là lẽ đương nhiên. Song cái mới, cái sáng tạo của Nguyễn Du là trên các mặt sau đây.

Trước hết, từ một cuốn tiểu thuyết chương hồi (20 hồi) bằng văn xuôi của Trung Quốc, Nguyễn Du đã tái tạo thành một truyện thơ của Việt Nam. Nếu tác phẩm chương hồi lấy những đoạn , những hồi làm cấu trúc tương đối chỉnh thể, độc lập với nhau thì Truyện Kiều là một truyện thơ liền mạch. Nói đến sự "liền mạch" như thế không thể không nghĩ đến hai điều. Đó là sự nhào nặn, thêm bớt tình tiết trên cơ sở lấy nhân vật làm trung tâm, và đó còn là vai trò của người dẫn truyện. Vai trò này tác động bằng giọng điệu, dù là ở một vị thế khách quan nhưng không phải không ảnh hưởng tới người nghe, người đọc. Chính vì đứng về phía người nghe, người đọc mà nhà văn tạo được cho tác phẩm một góc độ thẩm mỹ riêng, một quan hệ mới, những yếu tố thi pháp văn xuôi hiện đại sau này.

Nói đến một tác phẩm tự sự, ngoài vai trò của người dẫn truyện, phải kể đến nhân vật - linh hồn của tác phẩm. Trong bước phát triển còn sơ khai của thể loại truyện Nôm thời kỳ này, vị trí của nhân vật thường bị đầy lùi xuống hàng thứ hai, thay vào đó là cốt truyện. Nhưng ở Truyện Kiều, điều đó không xảy ra. Đó là một tiến bộ đáng kể, một sáng tạo lớn của Nguyễn Du so với mặt bằng truyện Nôm Việt Nam và cả so với tác phẩm nguyên mẫu. Chính vì vậy mà đọc Truyện Kiều, người ta nhớ đến nhân vật hơn là nhớ đến cốt truyện. Kết quả đáng ghi nhận này là nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Cách xây dựng ấy nhờ vào vốn sống dồi dào của tác giả tạo nên cái nền chất liệu; lại dựa vào vốn học, dùng lối "điểm nhãn" để tinh lọc của cổ hoạ, cổ thi. Vì thế nhân vật dù là chính diện hay phản diện, chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ đã trở thành một nguyên khối, một cá tính, một con người có thực : Tú Bà, Mã Giám Sinh - phường buôn thịt bán người vì lợi vì tiền mà đang tay vùi hoa dập liễu; Hoạn Thư đày đoạ Thuý Kiều không chỉ bởi vì ghen tuông; Hồ Tôn Hiến danh vị cao sang mà nhân tâm hèn hạ; Từ Hải là bậc anh hùng cái thế mà có lúc cũng dại dột, cả tin; Kim - Kiều đôi trai tài gái sắc tuy cuồng nhiệt say đắm nhưng thanh cao trong sạch; Thúc Sinh lép vế nhưng vẫn là một kẻ chung tình... Trong việc xây dựng nhân vật, Nguyễn Du kết hợp miêu tả ngoại hình với khắc họa nội tâm, tả cảnh với tả tình, đặt cảnh và tình trong những trường hợp cụ thể của nhân vật. Bao nhiêu lần Kiều đánh đàn mà không lần nào giống lần nào. Tiếng đàn ấy dành cho Kim Trọng hai lần trước sau cũng khác. Nỗi nhớ mẹ cha cũng thế. Vầng trăng trong tác phẩm trở đi trở lại, khi buồn khi vui : có khi là nhân chứng cho sự thề nguyền, lúc bầu bạn cho đỡ cô đơn, cũng có lần là "vầng trăng xẻ nửa". Vẫn là cánh én mùa xuân nhưng xào xạc buồn tẻ cũng có mà tươi tắn nên thơ cũng có...

Cùng với thành công về xây dựng nhân vật, Truyện Kiều của Nguyễn Du còn được viết ra với một phong cách ngôn ngữ bậc thầy. Ngôn ngữ đó đúng là đẹp, giản dị mà sang trọng, ngắn gọn mà dư ba, dân gian mà bác học. Ngòi bút của Nguyễn Du như con dao phân tích và mổ xẻ, như một sợi dây độc huyền ngân lên nhiều tâm trạng, nhiều giọng điệu. Nhân vật, tâm trạng dù khó tả đến đâu, nhà thơ vẫn truyền đưọc cái thần của nó. Ngay khi lược thuật diễn biến thời gian như từ cuối hạ đến xuân - một năm vần xoay chuyển động, khó ai viết được hai câu :


Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.


Mỗi mùa một khác. Cả cái khác nhau trong sự giống nhau. Đó là trường hợp Nguyễn Du dùng từ đồng âm khác nghĩa : "Phận rầu dầu vậy cũng dầu" hay "Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình". Việc học tập và sử dụng ca dao trong Truyện Kiều cũng là một gợi ý cho các nhà thơ. Ở đây, sự kế thừa và sáng tạo để nâng cao và tạo được một bản sắc riêng rất rõ. Từ câu ca dao "Ai đi muôn dặm non sông. Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy", Nguyễn Du cắt đi và nén lại. Áp suất ngôn từ vì thế mà tăng lên :


Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.


Nói cho thật đúng, sự sáng tạo này còn nhờ dựa vào kiến thức của thơ ca bác học. Hai nguồn học vấn này tạo nên sự đặc sắc của văn chương. Ấy là chưa nói ngôn ngữ ấy vừa là của bút pháp tự sự lại vừa là của bút pháp trữ tình, chưa nói đến thể thơ. Bởi vậy Truyện Kiều là một kiến trúc vừa đồ sộ, vừa tinh vi. Nó là khối toàn bích đa chiều.

Với một nghệ sĩ, văn chương bao giờ cũng là một sự kí thác. Càng là nhà thơ sinh ra trong hoàng hôn của một chế độ xã hội đang tàn, điều gửi gắm ấy càng lặn sâu vào chiều dọc, chiều ngang - những sợi chỉ dệt nên tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm lớn, vì vậy tâm sự tâm tình càng lớn. Cái lớn ấy phải chăng là những yêu thương, đau đớn, những khát vọng, băn khoăn mà sau này Tố Hữu nói gọn lại là nỗi niềm : "Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương". Tâm sự, nỗi niềm ấy là một bi kịch, nhưng nó cũng là một bản tình ca mà tình yêu của nhà thơ tạo nên giai điệu. Ngày nay chưa đến ba trăm năm, đọc lại Nguyễn Du, chúng ta hiểu một con người mà với con người ấy, đời và thơ là một, tư tưởng và nghệ thuật là một. Thành công của Truyện Kiều chính là ở đó : sự chân thực và tài hoa.
Nguồn net
 
Top Bottom