

Chào mọi người, đây là bài thuyết minh về bài thơ "Bánh trôi nước", mong mọi người bỏ chút thời gian đọc qua và nhận xét giúp em. Em sắp kiểm tra rồi ạ.
-----------------
Hình ảnh người phụ nữ là nguồn cảm hứng sáng tác rất lớn của rất nhiều nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ trung đại. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hiếm hoi “nhà thơ nữ viết về phụ nữ” trong nền văn học trung đại Việt Nam. Vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa được phản ánh qua thơ Hồ Xuân Hương, tiêu biểu là bài thơ “Bánh trôi nước”.
Hồ Xuân Hương sinh ra vào khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, hiện nay lai lịch của bà vẫn còn là một điều bí ẩn. Theo “Giai nhân dị mặc” của Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Xuân Hương quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là nữ nhi nhưng bà được cho ăn học từ nhỏ, nức tiếng là người có tài, thông minh, xinh đẹp lại giỏi thơ Nôm. Thế nhưng cuộc đời của Hồ Xuân Hương năm lần bảy lượt đều gắn với phận “làm lẽ”. Sinh ra trong chế độ phong kiến - thời kì tồn tại những hủ tục, định kiến trong xã hội dày vò người phụ nữ, phổ biến tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, lại phải chịu kiếp “chồng chung”, Hồ Xuân Hương thẳng thắn tố cáo xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi và thể hiện niềm thương cảm với số phận người phụ nữ. Thơ bà mang phong cách trào phúng mà trữ tình, với đặc sắc “thanh thanh tục tục” Bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sáng tác bao gồm cả chữ Nôm và chữ Hán. “Bánh trôi nước” là bài thơ tiêu biểu viết về người phụ nữ của bà trong hoàn cảnh đó, vẫn còn có giá trị đến ngày nay.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
“Bánh trôi nước” được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tức là bài thơ gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ. Thể thơ này có nguồn gốc từ thơ Đường ở Trung Quốc, tuân theo những niêm luật chặt chẽ. Bài thơ có ba vần: chữ cuối câu 1 (“tròn”) bắt vần với chữ cuối câu 2 (“non”) và câu 4 (“son”). Thơ tứ tuyệt có bài đối hai câu đầu, có bài đối hai câu cuối, tuy nhiên bài “Bánh trôi nước” lại không có đối. Cũng như những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt khác, “Bánh trôi nước” có bố cục bốn phần ứng với mỗi câu thơ: câu khai (câu đầu) mở đề cho bài thơ, câu thực (câu hai) tả rõ người hoặc cảnh, câu luận (câu ba) nêu ý kiến và quan điểm, câu kết (câu cuối) rút ra kết luận chung cho bài thơ. Thể thất ngôn tứ tuyệt súc tích, ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, mang nhiều tầng ý nghĩa đã làm nên giá trị quý báu của “Bánh trôi nước” về cả mặt nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa: tả thực chiếc bánh trôi nước, ẩn dụ hình ảnh người phụ nữ. Câu đầu miêu tả chiếc bánh trôi với hình dáng thật đẹp “vừa trắng lại vừa tròn”, qua đó ca ngợi vẻ đẹp trong trắng, dịu dàng, điềm đạm của người phụ nữ. Đến câu thứ hai, Hồ Xuân Hương khái quát đầy đủ quá trình nấu chín bánh trong dân gian: được luộc trong nồi nước đun sôi. Nhưng “bảy nổi ba chìm” cũng là số phận lênh đênh, lận đận mà những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải trải qua. Câu thơ thứ ba thể hiện rằng, hình dáng của chiếc bánh đẹp hay xấu, tròn hay méo đều phụ thuộc vào bàn tay người nhào nặn. Mượn hình ảnh ấy, Hồ Xuân Hương thể hiện niềm thương cảm cho số phận vô định của nữ nhi thời bấy giờ : phải phó mặc cuộc đời mình vào tay người đàn ông, hạnh phúc hay khổ đau đều do người chồng quyết định; họ không có quyền tự định đoạt đời mình, dù có bị cuộc đời vùi dập cũng chỉ biết cam chịu, không dám đứng lên đấu tranh. Ở câu thơ cuối, Hồ Xuân Hương khẳng định phẩm chất đến từ bên trong chiếc bánh, dù trải qua bao giai đoạn từ việc bị nhào nặn đến đun sôi, bánh trôi vẫn giữ được nhân đường đỏ ngon ngọt bên trong. Qua đó, bà khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất truyền thống cao quý của phụ nữ Việt Nam. Phẩm chất ấy là tấm lòng thủy chung, son sắt không phai mờ dù cho cuộc đời có nghiệt ngã và bất công.
Về giá trị hiện thực, “Bánh trôi nước” đã thành công phản ánh, đả kích chế độ phụ quyền và tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã đối xử bất công với người phụ nữ. Những bài thơ Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ đều tố cáo xã hội đương thời vừa khéo léo, vừa thẳng thắn, giúp cho người đọc có được hình dung đúng đắn về mặt xấu của xã hội xưa, tiêu biểu là qua câu thứ hai và thứ ba của bài “Bánh trôi nước”. Giá trị nhân đạo của bài thơ nằm ở sự đồng cảm, niềm thương xót cho thân phận “thuyền quyên”, “bảy nổi ba chìm” của phụ nữ thời phong kiến mà nữ thi sĩ viết nên từ chính những lận đận bà đã trải qua, những gì bà đã chứng kiến. Qua đó, hình ảnh bánh trôi nước nhắc nhở người đọc về vẻ đẹp cả hình thức và cốt cách đẹp đẽ bên trong của phụ nữ cần được ca ngợi, trân quý.
Về mặt nghệ thuật, Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh chiếc bánh trôi gần gũi với đời thường để ẩn dụ hình ảnh người phụ nữ, nhận thấy qua các từ ngữ đặc tả chiếc bánh (“trắng”, “tròn”, “bảy nổi ba chìm”, “rắn nát”, “lòng son”). Bên cạnh đó, bà còn sử dụng thành ngữ “bảy nổi ba chìm” để thể hiện số phận long đong của người con gái, điệp từ “vừa” để nhấn mạnh vẻ đẹp của họ. Ngôn ngữ trong bài thơ giản dị, đậm chất dân gian (“mặc dầu”), mở đầu bằng hai từ “Thân em” giống với cách mở đầu quen thuộc của ca dao than thân. Giọng thơ nhịp nhàng cũng là yếu tố làm nên giá trị của “Bánh trôi nước”:câu đầu giọng thơ tự hào với vẻ đẹp của mình, câu hai giọng thơ bỗng than vãn, rồi chuyển sang giọng thơ ngậm ngùi với số phận lận đận ở câu ba, nhưng đến câu cuối giọng thơ lại mạnh mẽ, khẳng định phẩm chất cao đẹp của bản thân. Sự đối lập giữa giọng thơ ở câu ba và bốn thể hiện tinh thần kiên cường, quả quyết bảo vệ tấm lòng trinh bạch của người phụ nữ trước xã hội bất công.
Cái tài tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương nằm ở chỗ chỉ với bốn câu thơ ngắn của thể thất ngôn tứ tuyệt, ngòi bút tài ba của nữ thi sĩ đã biến một sự vật hết sức bình thường thành một hình ảnh đẹp đa tầng ý nghĩa. Không cần miêu tả cầu kì, từ ngữ bóng bẩy, chiếc bánh trôi được đặc tả những đặc điểm nhất định, mà hay sao những đặc điểm ấy lại tương đồng với vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ xưa. Qua đó, “Bánh trôi nước” thể hiện tài quan sát, liên tưởng, tưởng tượng của bà. Bên cạnh đó, điểm mới của bài thơ này so với các sáng tác đương thời là lời bênh vực, tiếng nói đấu tranh của chính một nhà thơ nữ như Hồ Xuân Hương, đại diện cho phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng, không được tôn trọng trong chế độ phong kiến.
Tóm lại, “Bánh trôi nước” là tác phẩm trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Với nghệ thuật đặc sắc, bài thơ vừa ca ngợi vẻ đẹp cao quý từ bề ngoài đến tâm hồn của người phụ nữ, vừa thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận chìm nổi của họ, đồng thời cũng là lời bộc bạch tự khẳng định mình của nữ thi sĩ.
-----------------
Em cảm ơn rất nhiều.
-----------------
Hình ảnh người phụ nữ là nguồn cảm hứng sáng tác rất lớn của rất nhiều nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ trung đại. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hiếm hoi “nhà thơ nữ viết về phụ nữ” trong nền văn học trung đại Việt Nam. Vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa được phản ánh qua thơ Hồ Xuân Hương, tiêu biểu là bài thơ “Bánh trôi nước”.
Hồ Xuân Hương sinh ra vào khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, hiện nay lai lịch của bà vẫn còn là một điều bí ẩn. Theo “Giai nhân dị mặc” của Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Xuân Hương quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là nữ nhi nhưng bà được cho ăn học từ nhỏ, nức tiếng là người có tài, thông minh, xinh đẹp lại giỏi thơ Nôm. Thế nhưng cuộc đời của Hồ Xuân Hương năm lần bảy lượt đều gắn với phận “làm lẽ”. Sinh ra trong chế độ phong kiến - thời kì tồn tại những hủ tục, định kiến trong xã hội dày vò người phụ nữ, phổ biến tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, lại phải chịu kiếp “chồng chung”, Hồ Xuân Hương thẳng thắn tố cáo xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi và thể hiện niềm thương cảm với số phận người phụ nữ. Thơ bà mang phong cách trào phúng mà trữ tình, với đặc sắc “thanh thanh tục tục” Bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sáng tác bao gồm cả chữ Nôm và chữ Hán. “Bánh trôi nước” là bài thơ tiêu biểu viết về người phụ nữ của bà trong hoàn cảnh đó, vẫn còn có giá trị đến ngày nay.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
“Bánh trôi nước” được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tức là bài thơ gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ. Thể thơ này có nguồn gốc từ thơ Đường ở Trung Quốc, tuân theo những niêm luật chặt chẽ. Bài thơ có ba vần: chữ cuối câu 1 (“tròn”) bắt vần với chữ cuối câu 2 (“non”) và câu 4 (“son”). Thơ tứ tuyệt có bài đối hai câu đầu, có bài đối hai câu cuối, tuy nhiên bài “Bánh trôi nước” lại không có đối. Cũng như những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt khác, “Bánh trôi nước” có bố cục bốn phần ứng với mỗi câu thơ: câu khai (câu đầu) mở đề cho bài thơ, câu thực (câu hai) tả rõ người hoặc cảnh, câu luận (câu ba) nêu ý kiến và quan điểm, câu kết (câu cuối) rút ra kết luận chung cho bài thơ. Thể thất ngôn tứ tuyệt súc tích, ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, mang nhiều tầng ý nghĩa đã làm nên giá trị quý báu của “Bánh trôi nước” về cả mặt nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa: tả thực chiếc bánh trôi nước, ẩn dụ hình ảnh người phụ nữ. Câu đầu miêu tả chiếc bánh trôi với hình dáng thật đẹp “vừa trắng lại vừa tròn”, qua đó ca ngợi vẻ đẹp trong trắng, dịu dàng, điềm đạm của người phụ nữ. Đến câu thứ hai, Hồ Xuân Hương khái quát đầy đủ quá trình nấu chín bánh trong dân gian: được luộc trong nồi nước đun sôi. Nhưng “bảy nổi ba chìm” cũng là số phận lênh đênh, lận đận mà những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải trải qua. Câu thơ thứ ba thể hiện rằng, hình dáng của chiếc bánh đẹp hay xấu, tròn hay méo đều phụ thuộc vào bàn tay người nhào nặn. Mượn hình ảnh ấy, Hồ Xuân Hương thể hiện niềm thương cảm cho số phận vô định của nữ nhi thời bấy giờ : phải phó mặc cuộc đời mình vào tay người đàn ông, hạnh phúc hay khổ đau đều do người chồng quyết định; họ không có quyền tự định đoạt đời mình, dù có bị cuộc đời vùi dập cũng chỉ biết cam chịu, không dám đứng lên đấu tranh. Ở câu thơ cuối, Hồ Xuân Hương khẳng định phẩm chất đến từ bên trong chiếc bánh, dù trải qua bao giai đoạn từ việc bị nhào nặn đến đun sôi, bánh trôi vẫn giữ được nhân đường đỏ ngon ngọt bên trong. Qua đó, bà khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất truyền thống cao quý của phụ nữ Việt Nam. Phẩm chất ấy là tấm lòng thủy chung, son sắt không phai mờ dù cho cuộc đời có nghiệt ngã và bất công.
Về giá trị hiện thực, “Bánh trôi nước” đã thành công phản ánh, đả kích chế độ phụ quyền và tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã đối xử bất công với người phụ nữ. Những bài thơ Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ đều tố cáo xã hội đương thời vừa khéo léo, vừa thẳng thắn, giúp cho người đọc có được hình dung đúng đắn về mặt xấu của xã hội xưa, tiêu biểu là qua câu thứ hai và thứ ba của bài “Bánh trôi nước”. Giá trị nhân đạo của bài thơ nằm ở sự đồng cảm, niềm thương xót cho thân phận “thuyền quyên”, “bảy nổi ba chìm” của phụ nữ thời phong kiến mà nữ thi sĩ viết nên từ chính những lận đận bà đã trải qua, những gì bà đã chứng kiến. Qua đó, hình ảnh bánh trôi nước nhắc nhở người đọc về vẻ đẹp cả hình thức và cốt cách đẹp đẽ bên trong của phụ nữ cần được ca ngợi, trân quý.
Về mặt nghệ thuật, Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh chiếc bánh trôi gần gũi với đời thường để ẩn dụ hình ảnh người phụ nữ, nhận thấy qua các từ ngữ đặc tả chiếc bánh (“trắng”, “tròn”, “bảy nổi ba chìm”, “rắn nát”, “lòng son”). Bên cạnh đó, bà còn sử dụng thành ngữ “bảy nổi ba chìm” để thể hiện số phận long đong của người con gái, điệp từ “vừa” để nhấn mạnh vẻ đẹp của họ. Ngôn ngữ trong bài thơ giản dị, đậm chất dân gian (“mặc dầu”), mở đầu bằng hai từ “Thân em” giống với cách mở đầu quen thuộc của ca dao than thân. Giọng thơ nhịp nhàng cũng là yếu tố làm nên giá trị của “Bánh trôi nước”:câu đầu giọng thơ tự hào với vẻ đẹp của mình, câu hai giọng thơ bỗng than vãn, rồi chuyển sang giọng thơ ngậm ngùi với số phận lận đận ở câu ba, nhưng đến câu cuối giọng thơ lại mạnh mẽ, khẳng định phẩm chất cao đẹp của bản thân. Sự đối lập giữa giọng thơ ở câu ba và bốn thể hiện tinh thần kiên cường, quả quyết bảo vệ tấm lòng trinh bạch của người phụ nữ trước xã hội bất công.
Cái tài tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương nằm ở chỗ chỉ với bốn câu thơ ngắn của thể thất ngôn tứ tuyệt, ngòi bút tài ba của nữ thi sĩ đã biến một sự vật hết sức bình thường thành một hình ảnh đẹp đa tầng ý nghĩa. Không cần miêu tả cầu kì, từ ngữ bóng bẩy, chiếc bánh trôi được đặc tả những đặc điểm nhất định, mà hay sao những đặc điểm ấy lại tương đồng với vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ xưa. Qua đó, “Bánh trôi nước” thể hiện tài quan sát, liên tưởng, tưởng tượng của bà. Bên cạnh đó, điểm mới của bài thơ này so với các sáng tác đương thời là lời bênh vực, tiếng nói đấu tranh của chính một nhà thơ nữ như Hồ Xuân Hương, đại diện cho phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng, không được tôn trọng trong chế độ phong kiến.
Tóm lại, “Bánh trôi nước” là tác phẩm trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Với nghệ thuật đặc sắc, bài thơ vừa ca ngợi vẻ đẹp cao quý từ bề ngoài đến tâm hồn của người phụ nữ, vừa thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận chìm nổi của họ, đồng thời cũng là lời bộc bạch tự khẳng định mình của nữ thi sĩ.
-----------------
Em cảm ơn rất nhiều.