thuyết minh cây sâm

C

caoson8a

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Theo lịch sử YHCT của Trung Quốc từ 3000 năm trước Công nguyên, Nhân sâm đã được nói đến như là một thần dược trong “Thần nông bản thảo” của vua Thần Nông. Nhân sâm có ở nhiều quốc gia khác nhau như: Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bản, Vùng Viễn Đông Nga, Vùng Bắc Mỹ( Hoa Kỳ) nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Sâm Triều Tiên, Hàn Quốc.

060101_675.jpg


Sâm là tên gọi khái quát chỉ một số loại cây thân thảo mà củ và rễ được sử dụng làm thuốc từ rất lâu đời tại nhiều nước châu Á, thuộc nhiều chi họ khác nhau nhưng chủ yếu là các loại thuộc chi Sâm.


Rất nhiều loại củ sâm có hình dáng hao hao giống hình người, đặc biệt là nhân sâm, do đó một số vị thuốc khác không thuộc chi, họ sâm nhưng có hình dáng củ tương tự cũng thường được gọi là sâm. Thêm vào đó, sâm là một vị thuốc bổ nên nhiều vị thuốc khác có tác dụng bổ cũng được gọi là sâm hoặc gắn với chữ sâm (kể cả một số loại động vật như con hải sâm, sâm đất v.v.).

Có rất nhiều loại sâm, để phân biệt thường người ta gọi thêm tên địa phương hoặc màu sắc vào tên gọi:

* Nhân sâm (Panax ginseng họ Araliaceae): được mô tả sớm nhất và được ứng dụng phổ biến nhất. Theo lịch sử y học cổ truyền của Trung Quốc từ 3000 năm trước Công nguyên, nhân sâm đã được nói đến như là một thần dược trong “Thần nông bản thảo” của vua Thần Nông.

* Đảng sâm (Codonopsis spp. họ Campanulaceae): mọc hoang và được gieo trồng ở Thượng Đảng.

* Huyền sâm (Scrophularia họ Scrophulariaceae): có màu đen.

* Đan sâm (Salvia miltiorrhiza họ Lamiaceae): có màu đỏ.

* Bố chính sâm (Hibicus sagittifolius họ Malvaceae): mọc hoang và được sản xuất ở Bố Trạch.

* Sa sâm (Launaea pinnatifida họ Asteraceae/Adenophora spp. họ Campanulaceae): loại sâm này thường mọc ở vùng đất pha cát.

* Thổ nhân sâm (Talinum spp. họ Portulacaceae)

* Nam sâm (Schefflera octophylla họ Araliaceae)

* Nam sâm (Boerhaavia spp. họ Nyctaginaceae).

* Bàn long sâm (Spiranthes sinensis họ Orchidaceae).

* Điền thất nhân sâm (sâm tam thất, Panax pseudoginseng họ Araliaceae)

* Sâm Nhật Bản (Panax japonicus họ Araliaceae) dùng để thay thế khi không có nhân sâm, có tác dụng bổ tỳ–vị.

* Sâm Hoa Kỳ (Panax quinquefolius): còn gọi là sâm Bắc Mỹ. Năm 1984, nhà nghiên cứu Albert Leung ở Mỹ đã phân biệt hiệu năng giữa sâm Hoa Kỳ và nhân sâm như sau: "sâm Hoa Kỳ được coi là có tính mát, tính hàn, gần như đối nghịch với nhân sâm có tính ấm hay nhiệt". Dùng sâm Hoa Kỳ vào mùa hè nhằm giải nhiệt, hạ hỏa.

* Sâm Tây Bá Lợi Á (Eleutherococcus senticosus họ Araliaceae) còn gọi là sâm Siberi, sâm Liên Xô (cũ).

* Nhân Sâm Hàn Quốc, Nhân sâm Triều Tiên.


Việt Nam có nhiều dược thảo có tên sâm được sử dụng từ rất lâu đời ở Việt Nam, nhưng với nhiều công dụng khác nhau như:

* Bố chính sâm: (Hibiscus sagittifolius var. quinquelobus họ Malvaceae) thường thấy mọc ở Quảng Bình, Phú Yên. Hải Thượng Lãn Ông dùng phối hợp với thuốc khác để trị ho, sốt, gầy yếu. Hiện nay dùng làm thuốc bổ khí, thông tiểu tiện, hạ sốt.

* Sâm cau: (Curculigo orchiodes họ Hypoxidaceae) mọc nhiều dưới tán rừng xanh Lạng Sơn, Hòa Bình đến Đồng Nai. Có tác dụng bổ thận, tráng dương, dùng để chữa nam giới tinh lạnh, liệt dương, phụ nữ bạch đới, người già tiểu són.

* Sâm đại hành: (Eleutherine subaphylla họ Iridaceae) mọc hoang ở khắp nơi tại Việt Nam, thường được dùng để trị ho, đinh nhọt, lở ngứa ngoài da, chốc đầu, tổ đĩa.

* Sâm hoàn dương: mọc nhiều ở vùng núi cao nguyên Việt Nam, dùng để trị viêm phế quản phổi, mụn nhọt, ho, tắc tia sữa.

* Sâm mây: mọc nhiều ở Bắc Việt Nam, Bình Thuận, Đồng Nai. Người dân thường sử dụng làm thuốc bổ.

* Sâm Ngọc Linh: (Panax vietnamensis họ Araliaceae) còn gọi là sâm Việt Nam, sâm Khu Năm, sâm trúc (Panax Vietnamensis Araliaceae) mọc tập trung tập trung ở các huyện miền núi Ngọc Linh thuộc Kontum và Quảng Nam ở độ cao 1500 đến 2100m, cây mọc dày thành đám dưới tán rừng dọc theo các suối ẩm trên đất nhiều mùn.

* Sâm nam (Dipsacus japonicus họ Dipsacaceae).


Tác dụng thảo dược của nhân sâm tại các nước châu Á như: Triều Tiên, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản nhân sâm được coi là vị thuốc quý đứng đầu trong các loại thuốc quý đông y: “sâm nhung quế phụ”. Tuy nhiên dược tính và tác dụng bổ dưỡng của nhân sâm còn gây tranh cãi trong giới học giả phương Tây.
 
Last edited by a moderator:
I

iamasone_fly

NHÂN SÂM THEO ĐÔNG Y
Theo truyền thuyết, ba vị vua khai sáng ra nước Tàu được gọi là Tam Hoàng cai trị khoảng 2500 đến 3000 năm trước Tây Lịch. Ba vị vua này cũng là thủy tổ của văn minh Trung Hoa. Vua đầu tiên là Phục Hi được coi là người đã viết nên quyển Kinh Dịch, là cuốn kinh khởi nguyên cho mọi loại học thuật. Kế đó là vua Thần Nông, cha đẻ của nông nghiệp, chăn nuôi và dược thảo. Vua thứ ba là Hoàng Đế, tạo ra lễ nhạc và y thuật.
Trong Hoàng Đế Nội Kinh, tác phẩm nói là do Hoàng Đế trước tác phân tích và phương pháp chữa trị dùng cơ sở âm dương ngũ hành nhưng nhiều người cho rằng chỉ được trước tác khoảng thế kỷ thứ ba hay thứ tư trước Tây Lịch và có thể chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Hồi của Thiên Trúc trong đó pha trộn nhiều luận điểm tương tự như tiên đạo, du già (yoga) và đôi chỗ cả tư tưởng Phật giáo.
Đào Hoằng Cảnh (452-536) khi san định lại Thần Nông Bách Thảo Kinh đã viết về nhân sâm như sau:
“Nhân sâm mọc trong khe núi, được dùng để trị ngũ thương, an thần, giảm xúc động, trị hồi hộp, làm sáng mắt, thanh thần và gia tăng trí não. Dùng lâu ngày sẽ làm tăng tuổi thọ.”

Chính từ cuốn sách này mà người ta cho rằng nhân sâm là một loại linh dược, một thảo mộc có năng lực cải lão hoàn đồng và đạt tới trường sinh. Một số đạo gia dùng nhân sâm trong việc luyện đơn. Một nhân vật nổi tiếng là Cát Hồng đời Đông Tấn, người đời thường biết đến qua tác phẩm Bão Phác Tử nội ngoại thiên, một cuốn sách quan trọng cho những ai tìm hiểu về tiên thuật Trung Hoa. Bão Phác Tử viết khoảng thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên, chép mọi phương pháp trường sinh, luyện đơn, ăn uống, và pháp thuật. Ông viết những phép luyện thủy ngân, chu sa, chì hoá vàng cùng nhiều công thức khác. Nhân sâm được liệt kê là có tác dụng kéo dài tuổi thọ và tránh bệnh tật.NHÂN SÂM TẠI ÂU MỸ
Dược tính và những dật sự của nhân sâm được truyền qua Âu Châu từ thời trung cổ. Ngay từ trước khi Marco Polo kể lại những chuyện ông mắt thấy tai nghe ở triều đình nhà Nguyên vào cuối thế kỷ thứ 13 thì việc buôn bán, trao đổi sản phẩm giữa Trung Hoa và Âu Châu đã thịnh hành. Tuy nhiên, phải đến năm 1497, khi đường biển đi từ Ấn Độ sang Trung Hoa được Vasco de Gama khai thông thì việc giao thương mới thuận lợi. Những phái đoàn truyền giáo là thành phần đi tiên phong. Trong số các giáo sĩ, một số đông cũng là những khoa học gia, y gia muốn mang văn minh Âu Tây làm phương tiện mở đường cho việc kết thân với vua quan và dân chúng bản xứ. Họ qua các nước Á Đông dạy về toán học, thiên văn học, hàng hải, giải phẫu, cơ thể học là những ngành kỹ thuật mới phát triển trong thời Trung Cổ. Nhiều người đã được phong quan tước và giữ những chức vụ của triều đình. Họ cũng bỏ công nghiên cứu về Trung y cũng như tìm hiểu dược thảo của người Tàu như thế nào. Cây nhân sâm được nói đến như một loại dược thảo kỳ diệu của vùng Mãn Châu.
Đầu thế kỷ thứ 17, trong tác phẩm Đế quốc Trung Hoa của Alvaro Semedo (Rome, 1643) và Người Mông Cổ chinh phục Trung Hoa của Martinus Martini đã có nhắc đến nhân sâm. Tuy nhiên, hai tác giả này không nhìn thấy những giá trị thương mại của củ sâm mà chỉ coi như một đặc sản của vùng Viễn Đông mà thôi.
Phải đến khi linh mục Pére Jartous, một giáo sĩ giòng Jesuit ở Trung Hoa, mô tả loại cây này một cách khoa học, có nghiên cứu, thì các thương nhân mới nghĩ đến việc buôn bán món hàng này. Khi bài viết nhan đề “Mô Tả Về Các Loại Nhân Sâm Mọc Hoang” của ông xuất hiện trên tạp chí Triếøt học của Hiệp Hội Hoàng Gia Luân Đôn năm 1714, trong đó có vẽ hình chi tiết những cây sâm mà người Tàu đi tìm ở vùng núi Trường Bạch, thì người Âu Châu mới nhận ra rằng không phải chỉ bên Tàu mới có giống cây huyền bí này mà ở Bắc Mỹ cũng có rất nhiều dã sâm, mọc khắp nơi trong rừng núi. Đó chính là thời kỳ người ta bắt đầu khai thác sâm Âu Mỹ, ta thường gọi là sâm Hoa Kỳ.

CÁC LOẠI SÂM
Cùng họ Panax, có nhiều loại sâm khác nhau được dùng trong Đông y, mỗi loại có công năng khác nhau. Một loại người ta gọi là Panax pseudo-ginseng hay Panax notoginseng thường dùng dưới cái tên Điền Thất Nhân Sâm (tien chi ginseng). Tên thường dùng gọi là củ tam thất (san-chi), mọc nhiều ở vùng tây nam nước Tàu. Loại sâm này được bán dưới dạng sống hay đã chế luyện. Tam thất có vị ngọt, hơi đắng, tính ấm tác dụng vào can và vị kinh dùng trong bệnh trĩ, hay đau nhức, làm giảm sưng. Theo Trung y, đau nhức là do huyết trệ, máu huyết không đem đủ chất bổ dưỡng và không thải được chất độc một cách trọn vẹn.
Loại thứ hai là Panax japonicum, hay sâm Nhật Bản người Tàu gọi là Sâm Đông Dương, còn gọi là trúc tiết nhân sâm. Tên Nhật là Tikusetuninzin. Sâm Nhật Bản thường dùng để thay thế khi không có nhân sâm, vị đắng, có tác dụng bổ tì vị.
Panax majoris, thường gọi là Châu sâm (Pearl ginseng) hay Châu Nhi Sâm (Chu Erh Shen) được mô tả trong Bản Thảo Cương Mục, có vị đắng, tính hàn, tác dụng vào can và vị kinh dùng để bổ khí, giải phế nhiệt, bớt ho suyễn. Loại này không mạnh như nhân sâm.
Một số dược thảo khác, tuy không thuộc họ sâm (panax) nhưng cũng được gọi là sâm và dùng với những dược năng tương tự. Đảng Sâm (dang shen), là một loại dây leo được trồng tại vùng Thượng Đảng, củ có hình dáng giống củ sâm, chỉ mới dùng làm thuốc từ đời Thanh. Đảng sâm có tính ấm, làm tăng sức đề kháng của cơ thể và tăng cường bộ phận tiêu hóa và lợi phế. Vì tương đối rẻ tiền, người ta hay dùng đảng sâm trong việc nấu ăn để bổ khí và ít kích thích hơn nhân sâm. Nhiều người hay dùng đảng sâm thay nhân sâm vì trẻ già đều dùng được, nhiều cũng không có hại.
Một loại củ khác vẫn thường được mệnh danh là sâm Tây Bá Lợi Á (Siberian ginseng) tuy không trực tiếp thuộc loại sâm (Panax) nhưng thuộc vào một gia đình nhà sâm, tức họ Araliaceae. Tên thuốc của cây này là Eleutherococcus senticosus. Hồi thập niên 1950, một bác sĩ người Nga tên là I.I. Brekhman đã gia công tìm kiếm một loại dược vật có thể thay thế cho vị sâm Á châu (Panax ginseng) vì sâm giá cao và lại bị lệ thuộc vào Trung Quốc. Brekhman tìm ra loại cây eleuthero, một cây mọc nhiều trong vùng rừng hoang phía đông nước Nga. Sau hai mươi năm tìm tòi, ông đã khám phá ra những dược năng của loại cây này có tác dụng làm giảm căng thẳng, tăng cường sinh lực và điều hoà những bộ phận của cơ thể, làm chậm sự lão hóa của các tế bào. Vì tính chất phổ thông, lại dễ trồng, sâm Tây Bá Lợi Á được dùng để thay thế nhân sâm trong nhiều trường hợp. Sâm Tây Bá Lợi Á được đông y coi là dùng để bổ khí, tăng cường tì vị và thận, và an thần.
Thái tử sâm hay hài nhi sâm (pseudostellaria heterophylla) là một loại củ dùng để bổ khí mặc dù không họ hàng gì với nhân sâm. Những người hay bị mệt, thiếu khí lực thường là vì bộ phận tiêu hóa không tốt, không làm đủ cơ năng biến dưỡng chất bổ dùng thái tử sâm để bồi bổ nguyên khí gia tăng huyết dịch và làm cho cơ thể mạnh lên.


CÁC TÍNH NĂNG CỦA NHÂN SÂM
Dược tính của nhân sâm là nhờ một số hóa chất có tên là ginsenosides (nhân sâm tinh). Hiện nay các dược học gia vẫn tiếp tục nghiên cứu về vai trò của các hóa chất này. Tuy nhiên người ta cũng biết được một số công năng của một số là kích thích trung khu não bộ, và một số khác lại có nhiệm vụ trấn áp cho não bộ khỏi hưng phấn.
Sau đây là một số tính năng đã được kiểm nghiệm:
Chống bệnh tật: Nhân sâm có tác dụng của một loại thuốc bổ, có công dụng chữa trị một số bệnh tật như giảm bớt phiền não, bực bội, phóng xạ và làm gia tăng sức đề kháng chung của cơ thể. Tuy các khoa học gia Âu Mỹ còn chưa công nhận những giá trị này một cách tuyệt đối nhưng cũng xác định một số công năng. Tiến sĩ Norman R. Farnsworth, giáo sư nghiên cứu của đại học Dược Illinois đã viết trong tạp chí Ngiên cứu về Kinh Tế và Dược Thảo về nhân sâm:
- Chống lại sự mệt mỏi mà không có caffeine và làm tăng sức khỏe. Các lực sĩ Trung Hoa, Đại Hàn và Liên Xô thường dùng nhân sâm để gia tăng khí lực trong khi tập luyện và trước khi trình diễn. Một số lực sĩ Âu Mỹ cũng bắt đầu dùng loại dược vật này.
- Chống lại những tàn phá của cơ thể do thương tật và xúc động gây ra.
- Ngăn ngừa sự hủy hoại những hormone của các tuyến nội tiết.
- Gia tăng trí nhớ.
Kích thích hệ thống miễn nhiễm: Nhân sâm kích thích hệ thống chống bệnh tật khi được thí nghiệm trên cơ thể con người cũng như các loài vật. Nó làm tăng lượng bạch huyết cầu và tiêu diệt những vi sinh vật gây ra bệnh tật. Nhân sâm cũng làm gia tăng việc sản xuất chất interferon, một loại hóa chất do chính cơ thể con ngưòi tạo ra để chống lại các vi trùng, vi khuẩn. Trong một thí nghiệm, các nhà bác học Nga đã cho 4000 công nhân uống 4 miligram sâm mỗi ngày. Tỉ lệ đau ốm, nghỉ của những người này về các bệnh cảm, cúm, đau cổ, nghẹt mũi giảm rõ rệt so với các công nhân không dùng thuốc. Các phi hành gia Liên Xô cũng dùng nhân sâm để gia tăng sức khỏe khi được đưa lên không gian.
Giảm lượng cholesterol trong máu: Các khoa học gia Mỹ cho biết dùng nhân sâm sẽ giảm bớt lượng cholesterol xấu và làm tăng lượng cholesterol tốt (high-density lipoproteins, hay HDLs). Nhâm sâm cũng có tác dụng làm dãn nở các động mạch khiến máu ít bị tắc ngẽn và do đó tỉ lệ đau tim bớt đi.
Tiểu đường: Nhân sâm cũng làm giảm lượng đường trong máu nhưng chưa có những thí nghiệm phối hợp việc dùng nhân sâm trong việc trị bệnh tiểu đường nên không biết rõ nhân sâm có tác dụng gì đi ngược với phương pháp chữa trị chuyên môn hay không.
Bảo vệ gan: Những người bị suy gan vì dùng ma túy, uống rượu, hay bị các chất độc khác nếu dùng sâm có thể giải được phần nào chất độc tích tụ trong lá gan. Thí nghiệm cho thấy một số người lớn tuổi bị sơ gan vì nghiện rượu cũng bớt.
Quang tuyến và phóng xạ: Những tế bào bị ảnh hưởng của chữa trị bằng quang tuyến và phóng xạ cũng ít bị hủy hoại hơn nếu bệnh nhân dùng sâm.
Ung thư: Các nhà nghiên cứu Trung Hoa cho biết bệnh nhân ung thư dạ dày có thể kéo dài cuộc sống thêm được đến 4 năm nếu dùng sâm. Khoa học gia Liên Xô thì tuyên bố nhân sâm làm nhỏ bớt những bướu và nhọt độc.
Chống lão hóa: Ở Á châu, người ta thường dùng sâm khi tuổi đã lớn để cho thân thể kiện khang, làm chậm tuổi già. Sâm cũng giúp cho ăn ngon miệng hơn và làm tăng sự hấp thụ chất bổ dưỡng và sự suy nhược mà người già thường mắc phải.
Gia tăng tính dục: Người Trung Hoa cũng tin rằng sâm giúp cho nam giới tăng cường khả năng tình dục, là một loại thuốc khích dâm nhẹ. Những nghiên cứu của Liên Xô cho thấy tinh trùng có nhiều hơn trong tinh dịch khi thí nghiệm trên bò mộng. Tuy nhiên đối với con người thì chưa có những kết quả rõ rệt.
 

Minh Duc 2005

Học sinh mới
Thành viên
13 Tháng tám 2018
1
0
1
47
TP Hồ Chí Minh
Kinh te
Xin mọi người chỉ giúp cây này tên gì, có người bảo cây này giống sâm và ngâm rượu rất tốt. Xin cảm ơn.20180809_151243.jpg
 
Top Bottom