T
thienduong123
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
nếu đã học ngữ văn 7 thì mỗi ai cũng ko thể quên "bà huyện thanh quan".nhưng ít ai biết gì về bà...và đây là thơ bà:
Mục Lục thơ Bà Huyện Thanh Quan
Cảnh Thu
Chiều hôm nhớ nhà
Chùa Trấn Bắc
Ðền Trấn Võ
Nhớ nhà
Qua đèo Ngang
Thăng Long hoài cổ
Trời hôm nhớ nhà
Thăng Long hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường .
(Bà Huyện Thanh Quan)
Cảnh Thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhi?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ ?...
(Bà Huyện Thanh Quan)
Qua đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước.
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa .
Ngàn mai lác đác chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà .
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa,
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là ?
(Bà Huyện Thanh Quan
Trời hôm nhớ nhà
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn,
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khiến người qua đó chạnh lòng đau.
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau,
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá ?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Ðền Trấn Võ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
(Bà Huyện Thanh Quan)
còn đây là những thông tin về bà:
Bà Huyện Thanh Quan
Nổi tiếng là nhà thơ hoài cổ, có nghệ thuật thơ điêu luyện, trang nhã.
Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, trên bờ Hồ Tây, Hà Nội bây giờ.
Chồng bà là Lưu Nguyên ¤n, người làng Nguyện Áng, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội, từng làm tri huyện Thanh Quan. Có lẽ thế, mọi người quen gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.
Sáng tác của bà là những bài thơ nôm theo thể Đường luật. Được truyền tụng nhiều là những bài:
"Qua đèo Ngang", "Thăng Long thành hoài cổ", "Chiều hôm nhớ nhà", "Chùa Trấn Quốc"... tả cảnh thiên nhiên, có những nét chấm phá như tranh thuỷ mặc và có tính ước lệ, nhưng thường được gửi gắm tình cảm gợi lên được cái cảm giác nhớ thương lưu luyến đối với quá khứ.
Có kiến thức rộng, bà đã từng được vua Minh Mệnh mời vào cung dạy học cho cung phí, công chúạ ở trong cung, bà có dịp xướng hoạ thơ và bình văn với các vua nhà Nguyễn.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ có tiếng tăm trên lĩnh vực văn học dân tộc ta ở nửa đầu thế kỷ 19.
Mục Lục thơ Bà Huyện Thanh Quan
Cảnh Thu
Chiều hôm nhớ nhà
Chùa Trấn Bắc
Ðền Trấn Võ
Nhớ nhà
Qua đèo Ngang
Thăng Long hoài cổ
Trời hôm nhớ nhà
Thăng Long hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường .
(Bà Huyện Thanh Quan)
Cảnh Thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhi?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ ?...
(Bà Huyện Thanh Quan)
Qua đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước.
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa .
Ngàn mai lác đác chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà .
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa,
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là ?
(Bà Huyện Thanh Quan
Trời hôm nhớ nhà
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn,
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khiến người qua đó chạnh lòng đau.
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau,
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá ?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Ðền Trấn Võ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
(Bà Huyện Thanh Quan)
còn đây là những thông tin về bà:
Bà Huyện Thanh Quan
Nổi tiếng là nhà thơ hoài cổ, có nghệ thuật thơ điêu luyện, trang nhã.
Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, trên bờ Hồ Tây, Hà Nội bây giờ.
Chồng bà là Lưu Nguyên ¤n, người làng Nguyện Áng, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội, từng làm tri huyện Thanh Quan. Có lẽ thế, mọi người quen gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.
Sáng tác của bà là những bài thơ nôm theo thể Đường luật. Được truyền tụng nhiều là những bài:
"Qua đèo Ngang", "Thăng Long thành hoài cổ", "Chiều hôm nhớ nhà", "Chùa Trấn Quốc"... tả cảnh thiên nhiên, có những nét chấm phá như tranh thuỷ mặc và có tính ước lệ, nhưng thường được gửi gắm tình cảm gợi lên được cái cảm giác nhớ thương lưu luyến đối với quá khứ.
Có kiến thức rộng, bà đã từng được vua Minh Mệnh mời vào cung dạy học cho cung phí, công chúạ ở trong cung, bà có dịp xướng hoạ thơ và bình văn với các vua nhà Nguyễn.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ có tiếng tăm trên lĩnh vực văn học dân tộc ta ở nửa đầu thế kỷ 19.