Thám tử Sherlock Homel

L

leduyducvt1986

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Anthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới.
Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H.Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The Strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903với vụ án cuối cùng vào năm 1914.


Đó là một số thông tin mình biết được xung quanh tập tiểu thuyết trinh thám này
Dưới đây là một số tập mà mình đã từng được đọc.Nếu bạn nào có những tập khác,vui lòng post thêm nhé!


Giải Băng Lốm Đốm


Một sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi đã thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ thường, anh hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ 15. Tôi ngước nhìn anh, hơi ngạc nhiên. ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì chính tôi cũng quen dậy muộn.
- Tôi lấy làm tiếc là đã đánh thức anh dậy. - Holmes nói
- Có chuyện gì thế? Hỏa hoạn à?
- Không, có một thân chủ đang chờ. Một tiểu thư trẻ đang thảng thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. Cô ấy hiện ngồi đợi dưới phòng khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, thì chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng lo. Vụ này có lẽ rất thú vị, đáng cho anh ghi chép, nên tôi tin chắc, anh sẽ muốn theo dõi ngay từ đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức anh, để anh khỏi bỏ lỡ một dịp may.
- Ồ, anh bạn vàng, tôi không đời nào chịu để lỡ một dịp may, vì bất cứ lý do gì.
Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau đã theo chân bạn tôi xuống phòng khách. Cô tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau một tấm mạng nhỏ thó, đang ngồi bên cửa sổ, cô vội đứng ngay dậy khi chúng tôi bước vào.
- Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn đây là bạn tôi, bác sỹ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với anh ấy cởi mở, như với chính tôi. À, rất mừng là bà Hudson đã tinh ý nhóm giúp lò sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò sưởi và tôi xin phép được mời tiểu thư một tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư đang rét run lên.
-Tôi run không phải vì trời lạnh, cô gái khẽ đáp.
- Vậy thì vì lý do gì?
- Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng. - Vừa nói, cô gái vừa nâng tấm mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy cô đang thật sự thảng thốt trong nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ rõ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt con thú săn đang bị bủa vây. Trông bề ngoài, cô chỉ trạc ba mươi, nhưng mái tóc đã điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ thì lộ rõ vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ bằng khoé mắt từng trải của anh, Sherlock Holmes đã biết về cô đủ mọi điều.
- Cô đừng sợ - anh nói, - chúng tôi sẽ giúp cô sớm giải thoát được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết rõ cô vừa tới đây bằng chuyến tàu sớm nay.
- Thế ra ông đã biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?
- Không, nhưng tôi nhìn thấy trên chiếc găng tay bên trái của cô phần còn lại của tấm vé khứ hồi. Cô đã phải dậy rất sớm, rồi còn phải ngồi co ro rất lâu trên một chiếc xe độc mã suốt cả một chặng đường dài lầy lội trước lúc ra tới ga.
Cô gái bối rối, nhìn anh bạn tôi chằm chằm.
- Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, anh mỉm cười nói - trên ống tay áo vét cô đang mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những vết bẩn ấy còn mới. Không một loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.
- Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy, cô gái nói. Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc 6 giờ 20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo... Thưa ông, tôi không còn chịu đựng được nữa. Tôi sẽ hóa điên mất nếu tình cảnh này cứ kéo dài. Tôi chỉ có một người để nhờ vả, nhưng con người khốn khổ đó e chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi đành tới cầu cứu ông, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp không, ít ra là cũng làm sáng tỏ ít nhiều những bí ẩn đáng sợ đang bủa vây tôi bốn bề?
- Xin cô cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh đang khiến cô sợ hãi.
- Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi hiện nay là những lo sợ của tôi, những lo sợ đều hết sức mơ hồ, - cô thân chủ đáp. - Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhỏ nhặt, đến nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời; ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm họa đang bủa vây quanh tôi.
- Tôi đang lắng nghe cô đây, thưa cô.
- Tôi tên là Helen Stoner. Tôi đang ở với ông bố dượng. Ông ấy là người cuối cùng còn sống của một dòng họ Saxon lâu đời nhất Anh quốc, dòng họ Roylotts xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.
Sherlock Holmes gật đầu.
- Tôi đã được nghe nói khá nhiều đến cái tên đó - anh nói.
- Có một thời, họ từng là dòng họ giàu có nhất Anh quốc. Lãnh địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire, và ở mạn tây, tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn thế hệ liền đã mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những gì còn sót lại đã bị một gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ, ngoài trừ một vài mẫu đất và một tòa nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước. Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà nọ, sống cuộc đời thảm hại của một người quý tộc nghèo. Nhưng cậu con trai độc nhất của ông ta, người hiện là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được một mảnh bằng bác sỹ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và đức kiên nhẫn, nên chẳng bao lâu sau đã được đông đảo khách hàng tín nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người, đánh một gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới thoát khỏi bản án xử giảo. Sau vụ đó, ông ta đã phải chịu cảnh tù tội rất lâu, nên khi được thả ông trở về Anh quốc trong tâm trạng thất vọng và bi quan.
Hồi còn làm bác sỹ ở Ấn Độ, bác sỹ Roylott đã kết hôn với mẹ tôi, bà Stoner, một quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Jlia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi. Hồi mẹ tôi đi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có một khoản tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng không dưới một ngàn bảng lợi tức. Bà giao hết khoản tiền đó cho bác sỹ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai chúng tôi khi nào chúng tôi đi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ ít lâu sau ngày chúng tôi trở về Anh: bà chết cách đây 8 năm trong một vụ tai nạn hỏa xa gần Crewe.
Ngay sau ngày đó, bác sỹ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại London hành nghề, và đưa hai chị em tôi về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.
Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu rất hồ hởi khi được gặp lại một người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông ta chẳng mấy khi bước ra ngoài, và hễ đi ra đến ngoài thì lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất cứ ai chạm trán với ông trên đường đi. Cái tính hay có những cơn giận hung hãn đã thành một tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylotts. Và đến đời bố dượng tôi, các tật đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta sống quá lâu ở miền nhiệt đới. Một loạt những vụ ẩu đả tồi tệ đã xảy ra, trong đó có hai vụ đã phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt ông ta, vì ông ta có một thể lực phi thường và hoàn toàn không thể tự kiềm chế, khi đã nổi cơn thịnh nộ.
Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Digan sống lang thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại trên mảnh đất nhỏ, diện tích chỉ vài acre của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật Ấn Độ, được người quen gửi tận bên đó về. Hiện ông đang nuôi một con báo đốm và một con khỉ đầu chó, suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đi đâu thì đi. Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.

 
L

leduyducvt1986

Giải băng lốm đốm (tiếp)

[FONT=&quot]Qua lời tôi kể,chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sướng cho lắm.Không một người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi,nên từ lâu lắm rồi,hai chị em tôi đã phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà.Chị tôi đã chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi,và tóc chị ấy cũng đã điểm bạc như tóc tôi.
- Thế chị ấy đã mất rồi sao?
- Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm.Chính tôi cũng đang định kể với ông về cái chết của chị ấy.Các ông thấy đấy,cảnh sống mà tôi vừa kể khiến chúng tôi không còn thích giao du với bất cứ ai cùng trang lứa và địa vị.Chị em tôi có một bà dì ruột,sống độc thân,tên là Honoria Westphail,bà ở mạn Harrow,nhưng họa hoằn lắm chúng tôi mới được phép đến thăm bà vài ngày.Cách đây hai năm,chị Julia có đến đó đón lễ Noel và đã gặp một Thiếu tá Hải quân,rồi đính hôn cùng anh ta.Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và không tỏ ý phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức hôn lễ,sau đó chị Julia đã gặp một việc khủng khiếp.
Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu tựa trên chiếc gối đặt trên tay vịn của chiếc đi văng. Nghe đến đó, anh bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt cô gái.
- Xin cô kể lại chuyện ấy thật cặn kẽ - anh nói.
- Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng thời gian kinh hoàng đó đều đã khắc sâu vào ký ức của tôi.Tòa nhà chính mà dượng tôi được thừa kế,như tôi vừa kể,rất cũ kỹ,chỉ còn một dãy bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện;mấy phòng khách thì chiếm phần trung tâm tòa nhà.Trong ba phòng ngủ kia,thì phòng đầu là bác sỹ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi,còn phòng cuối thì dành cho tôi.Chẳng phòng nào ăn thông với phòng nào; nhưng cả ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung.Tôi kể như vậy,có được rõ không ạ?
- Rất rõ.
"Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh hoàng đó, bác sỹ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông ấy chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà Ấn Độ rất nặng mà ông ta quen dùng.Vì vậy,chị ấy rời phòng sang bên tôi,ngồi một lúc,nói chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới.Mười một giờ thì chị ấy đứng dậy,rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại,ngoái nhìn sau lưng,rồi lên tiếng hỏi tôi:
- Helen,khuya khuya,em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo không?
- Chưa bao giờ - tôi đáp.
- Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?
- Không thể có chuyện đó được.Nhưng tại sao chị hỏi thế?
- Vì mấy đêm gần đây,vào khoảng ba giờ sáng,đêm nào chị cũng nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và rõ.Chị vốn tỉnh ngủ,nên tiếng động đó khiến chị thức giấc.Chị không thể nói rõ nó từ phía nào đưa lại.Có thể là từ phòng bên,mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào.Hôm qua,chị đã định hỏi em có nghe thấy không.
- Không,em không nghe.Chắc là đám Digan đấy.
- Có lẽ đúng vậy thật.Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào thì sao em không nghe thấy?Lạ thật!
- Ồ,em ngủ say hơn chị nhiều.
- Thôi,toàn chuyện vớ vẩn không đâu - chị ấy mỉm cười,khép cửa phòng tôi,và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khóa phòng chị."
- Thì ra là vậy,Sherlock Holmes nói.Chị cô và cô bao giờ cũng khóa cửa trước lúc đi ngủ?
- Vâng.
- Sao vậy?
- Hình như tôi đã kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông một con báo đốm và một con khỉ đầu chó.Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn khi đã khóa trái cửa sau lưng.
- Tôi hiểu. Xin cô kể tiếp.
"Đêm đó,tôi không thể nào chợp mắt được.Tôi linh cảm mơ hồ một điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình.Hai chúng tôi,hẳn ông còn nhớ, là hai chị em sinh đôi,và chắc ông cũng biết,anh em hay chị em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào.Đêm đó quả là một đêm ghê rợ.Gió rít từng hồi,còn mưa thì xối xả trút nước vào cửa sổ.Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên một tiếng rú man dại của một người phụ nữ đang hốt hoảng.Tôi nhận ra ngay: đó là tiếng chị tôi.Tôi nhảy vội xuống đất,lao ra hành lang.Lúc đang mở cửa,tôi chợt nghe một tiếng huýt sáo kẽ,đúng như chị tôi kể,rồi chỉ một lát sau,tiếng rơi đánh sầm của một vật nặng bằng kim loại.Khi tôi chạy sang,tôi thấy cửa phòng chị tôi không khóa,cánh cửa đang từ từ xoay trên bản lề.Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, không biết cái gì sắp xảy ra đây.Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang,tôi thấy chị Julia hiện ra sau cánh cửa,mặt trắng bệch vì khiếp sợ.Chị chới với vươn hai tay ra phía trước,cầu cứu tôi,toàn thân lảo đảo như thể đang say. Tôi chạy vội tới,ôm choàng lấy chị,nhưng đúng vào lúc đó,chân chị bỗng bủn rủn và chị ngã khuỵu xuống đất.Chị quằn quại vì một nỗi đau đớn không thể chịu đựng nổi.Mới đầu,tôi tưởng chị không nhận ra mình;nhưng lúc tôi cúi xuống,chị bỗng hét lên bằng một giọng mà tôi nhớ suốt đời:“Trời ơi, Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!“.Chị ấy còn cố nói một điều gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng,nhưng một cơn co giật nữa lại ập tới,không cho chị thốt nên lời.Tôi vừa đứng bật dậy,vừa lớn tiếng gọi ông bố dượng,và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. Trên người còn mặc chiếc áo ngủ lụng thụng.Khi ông ta chạy tới thì chị tôi đã bất tỉnh.Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi,cho người đi gọi ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô hiệu. Chị lả dần,rồi tắt thở,không còn tỉnh lại được nữa.Người chị yêu quý của tôi đã chết một cách khủng khiếp như vậy đó."
- Xin hỏi cô một câu,Sherlock Holmes nói - Cô có tin chắc là đã nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại?Cô có dám thề là mình đã không nghe lầm không?
- Tôi cảm thấy mình không lầm chút nào.Nhưng dẫu sao tôi cũng không dám đoán chắc lắm,vì lúc đó gió đang gào thét bên ngoài và căn nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ âm thanh giữa lúc mưa to gió lớn.
- Chị cô lúc đó đã ăn mặc chỉnh tề?
- Không!Chỉ mỗi chiếc áo ngủ trên người.Bên tay phải đang cầm một que diêm đã đánh lửa,còn bên tay trái một bao diêm.
- Điều đó chứng tỏ cô ấy đã quẹt diêm lên để xem thử có chuyện gì khiến cô ấy sợ hãi.Chi tiết đó rất quan trọng.Vậy ông dự thẩm kết luận thế nào khi đến điều tra?
- Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ,vì bác sỹ Roylott từ lâu đã là đối tượng khả nghi.Nhưng ông ấy không tài nào tìm thấy một chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết.Cửa phòng được khóa chặt từ bên trong.Bên ngoài cửa sổ còn có thêm một lần cửa gỗ được gá trên những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian.Hơn nữa,đêm nào cũng cài then cẩn thận.Tôi cũng đưa ông ấy đi xem tường vách:tất cả đều vẫn còn vững chãi lắm.Sàn nhà cũng được khám xét kỹ,nhưng vẫn chẳng có dấu hiệu khả nghi nào,ống khói lò sưởi tuy rộng,nhưng không thể chui qua.Như vậy,chắc chắn là khi xảy ra cái tai họa bi kịch ấy,chị tôi chỉ có một mình trong phòng.
- Thế khả năng bị đầu độc?
- Các bác sĩ cũng đã khám nghiệm tử thi,nhưng chẳng thu được một kết quả nào.
- Vậy,theo cô,lý do gì đã khiến người chị bất hạnh của cô chết thảm khốc như thế?
- Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần kinh,tuy không thể hình dung nổi điều gì đã khiến chị ấy sợ hãi đến mức đó.
- Hôm đó,đám Digan có mặt trong địa phận trang trại không?
- Có,họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.
- Này,vậy cô nghĩ gì về dải băng,dải băng lốm đốm,mà chị cô có nhắc tới?
- Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn nói tới một loại băng đảng gì đấy,chắc là tới đám người Digan,cũng có thể là thứ khăn trùm sặc sỡ mà dân Digan hay dùng đã khiến chị ấy thốt ra hai chữ “lốm đốm”kỳ dị đó.
Holmes lắc đầu như có ý không chút nào thấy thỏa mãn.
- Còn có một cái gì khác nữa kia! - anh nói - Xin cô kể tiếp đi.
"Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở nên lẻ loi,cô độc hơn bao giờ hết.Nhưng tháng trước,một anh bạn thân mà tôi quen biết từ nhiều năm,đã ngỏ lời cầu hôn tôi.Anh ấy tên là Armitage, Percy Armitage,thứ nam của ông Armitage ở vùng Crame Water,gần Reading.Bố dượng tôi không phản đối,và chúng tôi định sang xuân thì tổ chức hôn lễ.Cách đây hai ngày,bác sỹ Roylott gọi thợ tới,cho sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây.Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ của tôi,nên tôi phải dời sang ở tạm tại căn phòng nơi chị tôi đã qua đời,ngủ trên chính chiếc giường chị ấy từng ngủ.Đêm qua,tôi nằm mà chẳng tài nào chợp mắt được,vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình.Thế rồi,các ông có hình dung được không nỗi kinh hoàng của tôi.Tôi bỗng nghe thấy trong cảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết.Tôi choàng ngay dậy,châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả.Tôi quá hoảng sợ,nên không thể lên giường ngủ tiếp,đành mặc sẵn quần áo,ngồi chờ.Thấy trời vừa sáng,tôi vội lên đường đến gặp ông ngay,để cầu cứu ông."
- Cô đã xử sự rất khôn ngoan. - bạn tôi nói - Nhưng cô đã kể hết chưa?
- Thưa ông, hết rồi.
- Chưa đâu,cô Roylott ạ.Cô đang bao che cho ông bố dượng của cô đấy.
- Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?
Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của cô thân chủ lên.Năm vết đỏ bầm,dấu của năm ngón tay,nổi rõ trên cổ tay trắng muốt của cô gái.
- Cô bị ông ta đối xử tàn tệ quá!Holmes nói.
Cô gái đỏ bừng mặt,kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay bị bầm.
- Ông ấy là hạng người cục súc,cô nói,sức lực như hộ pháp,và chắc không lường hết được sức mạnh của mình.
Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu.Holmes tì cằm lên hai tay,nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.
Mãi sau, anh mới lên tiếng:
- Vụ này thật bí ẩn. Có tới hàng trăm tình tiết tôi đang muốn biết rõ trước lúc quyết định phương hướng hành động.Chúng ta đừng để mất thời giờ. Cô có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng cô không hề hay biết, được không?
- Được ạ. Vì ông ấy có nói là hôm nay phải lên London thu xếp một số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta sẽ vắng nhà suốt ngày, nên không ai cản trở các ông đâu.
- Tuyệt! Thế thì cả hai chúng tôi sẽ cùng đến. Còn cô,cô có phải thu xếp việc riêng gì nữa không?
- Tôi có vài việc đang định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi sẽ quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp đón hai ông.
- Vậy cô nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng có vài việc vặt cần thu xếp.Cô có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi không?
- Ồ không, tôi phải đi gấp. Hy vọng sẽ gặp lai các ông vào chiều nay -cô gái buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.
- Anh nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngã người vào lưng ghế.
- Tôi cảm thấy đây là một vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng một tội ác thâm độc.
- Bí hiểm thật, mà cũng thâm độc thật.
- Cô gái cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; không một ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, thì rõ ràng là người chị chỉ có một mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.
- Vậy thì tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ cô ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào?
- Tôi chưa thể nghĩ ra.
- Anh nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải băng của đám Digan mà lão bác sỹ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản cô con gái của người vợ cũ đi lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời cô chị nhắc tới dải băng và sau cùng, là tình tiết cô Helen Stoner nghe thấy tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại. Âm thanh đó rất có thể là do một thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh vào vị trí cũ.Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý giải vụ án.
- Nhưng nếu vậy thì đám Digan có liên quan gì?
- Tôi chưa thể hình dung.
- Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết anh vừa đưa ra.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác có vững hay không, hay ít ra cũng hiểu rõ được sự thể hơn. Ồ, lại sắp có chuyện quỉ quái gì nữa đây?


[/FONT]
 
L

leduyducvt1986

[FONT=&quot]Giải băng lốm đốm(tiếp)

Cửa phòng bật mở, và một người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất hiện. Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang trên cùng của khung cửa, và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như một con ác điểu già hung dữ.
- Trong hai anh, ai là Holmes, hả? - lão hỏi
- Tôi đây, thưa ngài - bạn tôi bình thản đáp.
- Ta là bác sỹ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.
- Rất hân hạnh - Holmes nói - Mời bác sỹ ngồi.
- Ta chẳng thèm ngồi với anh làm gì. Con gái vợ ta vừa ở đây ra. Ta đã lần được dấu vết nó. Nó đã hót gì với các anh, hả?
- Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes nói.
- Nó đã hót với anh những gì?- lão rít lên, giọng tức giận.
- Nhưng tôi nghe nói hoa vẫn sẽ được mùa - bạn tôi nói tiếp.
- À, anh định đánh trống lảng chứ gì? - ông khách vừa nói vừa bước lên trước một bước. - Anh thì ta chẳng lạ. Ta nghe danh anh lâu rồi. Anh là Holmes, một gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.
Holmes tủm tỉm cười đắc ý.
- Trò chuyện với ông thật thú vị. - anh nói. - Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có gió lùa.
- Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta nói hết những điều cần nói với anh. Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stoner đã mò tới đây, ta đã lần theo dấu vết của nó! Ta là một người nguy hiểm! Nhìn đây.
Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.
- Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta - lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ di.
- Quả là một con người dễ mến - Holmes vừa nói vừa cười lớn. - Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn tay lão lắm đâu. Nói chưa dứt lời, anh ta cầm thanh sắt cời than lên, rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.
- Anh Watson, bây giờ tôi sẽ bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi đi một lúc, hy vọng sẽ thu thập được một ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình trong vụ này.
Khoảng một giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. Anh cầm trên tay một tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những con số.
- Tôi đã được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - anh nói - Tổng số lợi tức khoảng 750 bảng. Mỗi cô gái có quyền đòi 250 bảng lợi tức khi nào họ đi lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai cô đều lấy chồng, thì lão bác sỹ chỉ còn được hưởng một số tiền chẳng đáng là bao; thậm chí chỉ một cô về nhà chồng thì lão cũng đã bị thua thiệt đáng kể. Công việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai cô gái. Và bây giờ, nếu anh đã sẵn sàng rồi thì chúng ta sẽ gọi một chiếc xe để ra ga Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu anh vui lòng nhét vào túi khẩu súng ngắn của anh. Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta chỉ cần hai thứ đó.
Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê một cỗ xe ngựa tại một quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe ngựa, băng qua khoảng bốn năm dặm trên những con đường làng ngoạn mục của vùng Surrey. Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hoà, bầu trời hơi vẩn mây, không khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có một sự tương phản kỳ lạ giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn một mùa xuân đẹp với công việc khủng khiếp mà chúng tôi đang theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng anh vỗ vai tôi, chỉ tay về phía những cánh đồng.
- Nhìn kìa! anh nói.
Một khu vườn sum suê cây cối trải dài trên một sườn đồi thoai thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của một tòa nhà cũ tàn tạ.
- Stoke Moran thì phải? - anh hỏi.
- Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sỹ Grimesby Roylott - người xà ích đáp - Ngài sẽ đỡ mất thời giờ hơn, nếu đi theo lối đường tắt băng qua đồng. Chỗ có một tiểu thư đang đi kia kìa.
- Theo tôi đó chắc là cô Stoner -Holmes phỏng đoán vậy.
Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay về Leatherhead.
- Chào cô Stoner - Holmes nói.
Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.
- Tôi rất mong hai ông - cô reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi. Bác sỹ Roylott đã lên London và khó có thể quay về trước tối nay.
- Chúng tôi đã có hân hạnh được gặp bác sỹ rồi - Holmes nói, và anh vắn tắt thuật lại những gì đã diễn ra. Cô Stoner tái mặt khi biết chuyện đó.
- Trời ơi! - cô kêu lên. - Vậy là lão đã theo sát gót tôi.
- Chắc thế.
- Lão quỉ quyệt tới mức tôi không thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có nói khi nào lão quay về không?
- Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình đã gặp trên đường đi một người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, cô phải khóa chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi sẽ gửi cô đến Harrow, ở với bà dì cô. Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời cơ, vì vậy, xin cô đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi phải xem kỹ.
Tòa nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần này. Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung cửa sổ.
- Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng; cái chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với tòa nhà chính là phòng của bác sỹ Roylott, đúng không, thưa cô?
- Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.
- Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. À luôn tiện cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.
- Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.
- À! Có thể đúng thế thật. Nay, mặt trong cái chái hẹp này có một dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?
- Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.
- Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em cô, nếu đêm nào các cô cũng khóa chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng cô và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.
Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.
- Hừm! - anh nói - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại bỏ. Không một ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt. Được rồi, bây giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì mới không.
Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện là phòng ngủ của cô Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó là một căn phòng nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu không kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một chi tiết nào.
- Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát đầu giường.
- Nối với phòng người quản gia.
- Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.
- Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.
- Chắc chị cô đòi mắc?
- Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.
- Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.
Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn. Cuối cùng, anh đến cạnh giường ngủ, nhìn chằm hằm một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên. Đoạn, anh cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.
- Sao không nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm ngay phía trên cửa thông gió.
- Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.
- Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này có một vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn có thể trổ ra ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.
- Cái này cũng mới làm gần đây - cô tiểu thư nói
- Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.
- Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.
- Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sỹ xem qua một chút.

[/FONT]
 
Last edited by a moderator:
N

ndquan1994

chán phèo chẳng có ích j cả, phí cả bộ nhớ của diễn đàn ra,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
 
L

leduyducvt1986

Giải băng lốm đốm(tiếp)



<font face="Times New Roman"><font size="3">Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ trước,nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ.Chỉ có một cái giường,một giá sách nhỏ bằng gỗ,một cái ghế bành kê cạnh giường,một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế xếp đặt sát tường,một cái bàn tròn và một tủ sắt lớn.Holmes thong thả đi quanh phòng,xem hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đạc.
- Tủ này đựng gì?Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.
- Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.
- Ồ,thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?
- Chỉ một lần duy nhất,cách đây vài năm.Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.
- Ông ta có nuôi gì trong đó không?Như mèo chẳng hạn.
- Không,ông hỏi gì lạ thế!
- Thề thì cô nhìn đây!- Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ,đựng sữa,đặt trên nóc tủ.
- Không,chúng tôi không nuôi mèo.Nhưng có một con báo đốm và một con khỉ đầu chó.
À,vâng.Dĩ nhiên!Báo đốm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác thôi.Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp đủ cho con vật đó.Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ- Anh lấy kính lúp ra soi lên mặt chiếc ghế gỗ,xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.
- Cảm ơn cô.Thế là rõ rồi,anh vừa nói vừa đứng dậy,cất chiếc kính lúp vào túi.Chà!Món này lý thú đây!
Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ,treo trên góc giường.Tuy nhiên,chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút,rồi thắt lại thành một vòng tròn.
- Watson,anh nghĩ gì về món này?
- Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi.Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.
- Chẳng bình thường lắm đâu,anh không thấy sao?Tôi nghĩ tôi xem xét xong rồi đấy,cô Stoner ạ.Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ,cô nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên.Vụ này nghiêm trọng lắm,ta không được chần chừ một phút nào nữa.Tính mạng của cô tùy thuộc cô đấy.
- Tôi xin phó thác hết cho ông.
- Trước hết,đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.
- Vâng,phải như thế mới được.Để tôi cắt nghĩa.Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?
- Vâng,đó là quán trọ Crown.
- Rất tốt.Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?
- Thấy được chứ.
- Khi nào bố dượng cô về,cô không được ra khỏi phòng,lấy cớ là cô bị nhức đầu.Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ,thì cô hãy mở ngay cửa sổ,đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi.Xong xuôi,cô mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của cô.Tôi tin chắc rằng,tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.
- Vâng,chuyện đó chẳng có gì khó.
- Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.
- Nhưng các ông sẽ làm gì?
- Chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.
- Ông Holmes,tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận - cô Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.
- Có lẽ cô đúng.
- Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.
- Trước lúc cho cô biết,tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.
- Ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng không:chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?
- Ồ không,tôi không cho là vậy.Tôi nghĩ là có một nguyên nhân cụ thể hơn nhiều.Còn bây giờ,chúng ta phải tạm biệt nhau,vì nếu bác sỹ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây,thì chuyển đi này coi như uổng công.Tạm biệt cô,cô hãy can đảm lên nhé!Nếu cô làm đúng những gì tôi dặn,cô có thể tin rằng chúng tôi sẽ sớm loại bỏ những hiểm họa đang rình rập cô.
Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một phòng khách tại quán trọ Crown.Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng,nên chúng tôi có thể nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại Stoke Moran.Vào lúc nhá nhem tối,chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác sỹ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ.Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé nhỏ.Đến cổng,cậu đánh xe loay hoay một lúc mới mở được hai cánh cổng sắt nạng,và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của bác sỹ Roylott gầm lên,trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích.Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát sau,chúng tôi đã thấy giữa lùm cây lóe lên một ánh đèn mới thắp trong một phòng khách tại nhà lão.
- Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa anh đi cùng hay không - Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng tối - Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!
- Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?
- Có anh đi cùng là rất quí.
- Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.
- Cám ơn, anh tốt quá.
- Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.
- Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn anh thôi. Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.
- Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.
- Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?
- Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.
- Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.
- Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.
- Ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sỹ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông sang nhau. Có điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì viên dự thẩm đã nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.
- Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?
- Ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc: người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người ta treo một sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?
- Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.
- Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?
- Không.
- Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?
- Có lẽ chưa bao giờ.
- Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó chỉ là sợi thừng, vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.
- Anh Holmes- tôi reo lên - Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ những gì anh muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn đứng một tội ác khủng khiếp.
- Phải, cũng khá khủng khiếp. Nhưng chúng ta sẽ còn phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới một cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,
Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi
qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã lóe sáng phía trước.
- Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.
Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vào bóng đêm.
- Trời ơi! - tôi rỉ tai Holmes - Anh có trông thấy gì không?
Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:
- Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.
Tôi đã quên khuấy mất lũ “gia súc” kỳ quặc của lão bác sỹ hiểm độc. Thú thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng.
Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe rõ được từng lời:
- Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.
Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.
- Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.
Tôi lại gật.
- Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tùy thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi ở mép giường; còn anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.
Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.
Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt giường, sát bên tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến; xong xuôi, anh tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.
Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó! Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi đang ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có một lần vang lên một tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo đốm đã được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông một tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một giờ, hai giờ, rồi ba giờ..., và chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.
Bỗng một ánh lửa lóe lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khét lẹt bay sang. Ai đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc. Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy, đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.
- Anh có thấy nó không, Watson? - anh rít lên - Anh có thấy nó không?
Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột lóe sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi không thể nói đích xác bạn tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay, ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang lên một tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn anh thì nhìn tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.
- Thế nghĩa là thế nào? - tôi thở dốc.
- Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng ta sẽ vào phòng bác sỹ Roylott.
 
L

leduyducvt1986

Giải băng lốm đốm(tiếp theo và hết)



Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên trong không có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm lăm trong tay.
Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. Trên bàn đặt một ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa đang hé mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sỹ Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.
- Dải băng! Dải băng lốm đốm! - Holmes khẽ thốt lên.
Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sỹ Roylott ngóc lên một cái đầu có cạnh và cái cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.
- Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất cứ giống nào ở Ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã, rồi đưa cô Stoner đến một nơi an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.
Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sỹ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.
Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sỹ Grimesby Roylott ở Stoke Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.
- Ban đầu, tôi đã kết luận hoàn toàn sai - anh nói. Điều đó cho thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính việc cô gái tội nghiệp nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả sự có mặt của đám Digan trong trang trại - hai thứ đó đã gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ rằng không thể có một hiểm họa nào đe dọa cô ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. Những chi tiết đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho một vật đi từ lỗ thông gío xuống giường ngủ.
Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sỹ có nhận một số giống vật từ Ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra đầu mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện.
Lão đã luyện cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích hợp, và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu giường. Con rắn có thể cắn người ngủ trên giường, mà cũng có thể không. Đêm đêm, cô gái có thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.
Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy, vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại phát ra, mà cô Stoner nghe được, rõ ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh cũng nghe rõ, tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật“.
- kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.
Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ đang ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về. Và chính vì vậy, không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sỹ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng lên lương tâm tôi lắm đâu.
 
N

ndquan1994

hjx đã bảo thế rồi, chẳng ai đọc đâu, tốn bộ nhớ diễn đàn, hjhj
chúc bạn thành công, sẽ k có ai đọc
 
N

ndquan1994

hjx đã bảo thế rồi, chẳng ai đọc đâu, tốn bộ nhớ diễn đàn, hjhj
chúc bạn thành công, sẽ k có ai đọc.................................................................................
 
T

trai_bon_mua

hjx đã bảo thế rồi, chẳng ai đọc đâu, tốn bộ nhớ diễn đàn, hjhj
chúc bạn thành công, sẽ k có ai đọc
Sao bạn lại nói vậy chứ! Có những người như vậy thì mới làm cho diễn đàn trở nên phong phú và sôi nổi hơn chứ.
Mình đã đọc hết 2 tập truyện này rồi, nó rất hay, li kì và lôi cuốn người đọc. Có thể có rất nhiều bạn đã nghe nói đến và muốn đọc nhưng k có điều kiện. Vì vậy, mà qua đây các bạn có thể theo dõi tập truyện này. Nếu bạn ấy mà post được hết thì quả là đáng nể phục!
 
L

leduyducvt1986

hjx đã bảo thế rồi, chẳng ai đọc đâu, tốn bộ nhớ diễn đàn, hjhj
chúc bạn thành công, sẽ k có ai đọc.................................................................................
Giá như,cả tôi và bạn có được một chút cái mà bạn đang cười nhạo với những tác phẩm của Anthur Conan Doyle thì chắc rằng chúng ta đã là những nhà văn lớn rồi đấy bạn à.
 
Last edited by a moderator:
L

leduyducvt1986

Sao bạn lại nói vậy chứ! Có những người như vậy thì mới làm cho diễn đàn trở nên phong phú và sôi nổi hơn chứ.
Mình đã đọc hết 2 tập truyện này rồi, nó rất hay, li kì và lôi cuốn người đọc. Có thể có rất nhiều bạn đã nghe nói đến và muốn đọc nhưng k có điều kiện. Vì vậy, mà qua đây các bạn có thể theo dõi tập truyện này. Nếu bạn ấy mà post được hết thì quả là đáng nể phục!
Thật tiếc là mình chỉ có 9 trong 56 tập truyện về Sherlock Homels thôi bạn à
 
T

trai_bon_mua

Thật tiếc là mình chỉ có 9 trong 56 tập truyện về Sherlock Homels thôi bạn à
Mình đã đọc hết bộ truyện này lâu lắm rồi nhưng trong tay mình đâu có quyển nào đâu.
Vì mình rất thích đọc sách nhưng k thích đi mua sách (nói đúng ra là kinh phí eo hẹp
:D:D:D) nên mình hay vào thư viện mượn sách về đọc. Do đọc bộ truyện này lâu rồi nên chỉ nhớ mang máng một vài tập thôi. Vi vậy nếu bạn có thời gian post bộ truyện này lên thì thật là thích!
:M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16:
 
L

leduyducvt1986

Thật tiếc là mình chỉ có 9 trong 56 tập truyện về Sherlock Homels thôi bạn à
Mình đã đọc hết bộ truyện này lâu lắm rồi nhưng trong tay mình đâu có quyển nào đâu.
Vì mình rất thích đọc sách nhưng k thích đi mua sách (nói đúng ra là kinh phí eo hẹp
:D:D:D) nên mình hay vào thư viện mượn sách về đọc. Do đọc bộ truyện này lâu rồi nên chỉ nhớ mang máng một vài tập thôi. Vi vậy nếu bạn có thời gian post bộ truyện này lên thì thật là thích!
:M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16::M_nhoc2_16:
Mình thì không chịu được nếu như nhìn thấy ở một hiệu sách nào đó có những cuốn mình thích,dù có phải nhịn ăn,nhịn mặc cũng phải mua bằng được.
Vậy mình xin post thêm,những ai không thích,xin cứ miễn bình luận.
 
L

leduyducvt1986


Vụ án mạng ở Abbey Grange

Vào một buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá của mùa đồng năm 1897,tôi bỗng thức giấc vì có ai lay mạnh vai tôi.Hóa ra là Holmes.Ngọn nến trên tay anh soi rõ gương mặt hăm hở,mà chỉ thoáng nhìn qua cũng biết ngay là có chuyện vừa xảy ra.
- Đi thôi,Watson,đi thôi!Đừng hỏi han gì cả!Mặc ngay quần áo vào,rồi lên đường!
Mười phút sau,hai chúng tôi đã ngồi trên một chiếc xe ngựa,lóc cóc băng qua những đường phố yên tĩnh đến ga Charing Cross.Ánh bình minh yếu ớt của một ngày đông bắt đầu ửng lên,nên thỉnh thoảng chúng tôi có thể thấy được bóng dáng lờ mờ của một người thợ đi làm sớm.Sau khi chúng tôi uống mấy chén trà nóng ngoài ga và được yên vị trên chuyến tàu đi Kent,anh mới thấy đủ ấm người lên để nói,còn tôi thì mới đủ tỉnh trí để nghe được câu chuyện.Holmes rút trong túi ra một mảnh giấy và đọc to lên:
“Abbey Grange, Marsham,Kent,3h30 sáng
Ông Holmes thân mến.Tôi sẽ rất lấy làm sung sướng,nếu ông vui lòng trợ lực cho tôi ngay lập tức trong việc điều tra một vụ án nhiều điều thú vị.Vụ này rất hợp với sở thích của ông.Ông sẽ thấy tôi vẫn giữ nguyên hiện trường,đúng như lúc tôi được mời đến.Chỉ xin ông đừng bỏ lỡ thời gian.
Người bạn trung thành của ông.
Stanley Hopkins”.

- Hopkins đã bảy lần mời tớ và lần nào cũng rất thích đáng.Tớ nghĩ chúng ta sẽ có một buổi sáng thú vị.Vụ án mạng xảy ra lúc 12 giờ đêm qua.
- Căn cứ vào đâu mà cậu có thể nói chắc như thế?
- Vào giờ tàu và cách tính thời gian.Đầu tiên họ phải mời cảnh sát địa phương.Tiếp đó mới trình báo với Scotland Yard.Rồi Hopkins phải đến tận hiện trường,sau đó mới có thể đánh điện cho tớ.Phải mất trọn một đêm mới làm được chừng đó việc.À,ga Chislehurst kia rồi.Mọi chuyện rồi sẽ sớm ngã ngũ thôi.

Vượt qua quãng đường vài dặm trên một hương lộ hẹp,chúng tôi đến trước cổng một khu vườn.Người gác cổng già vội mở cổng cho chúng tôi.Một lối đi rộng vắt ngang khu vườn,chạy giữa hai hàng cổ thụ,dẫn đến trước một tòa nhà rộng và thấp.Phần chính tòa nhà rất cổ kính,ẩn mình dưới những dây trường xuân sum suê,nhưng những khung cửa sổ rộng cho thấy chủ nhân đã cho sửa sang lại theo kiểu dáng hiện đại.Một bên trái xem ra mới làm thêm.Đón chúng tôi trước cánh cửa mở rộng là viên thanh tra Stanley Hopkins,dáng trẻ trung,gương mặt lộ rõ vẻ nôn nóng.
- Ông Holmes,rất mừng là ông đã đến.Và cả ông nữa, bác sỹ Watson.Thực ra giá được biết sớm,chắc tôi chẳng dám làm phiền ông.Từ khi tỉnh lại,phu nhân đã cho chúng tôi biết về vụ này một cách rành rọt đến nỗi chúng ta có lẽ chẳng còn bao nhiêu công việc để làm nữa.Ông chắc còn nhớ băng trộm ở Lewisham?
- Sao?Băng ba cha con nhà Randall phải không?
- Đúng vậy.Ông bố với hai thằng con.Rõ ràng là bàn tay của chúng.Tôi không còn hồ nghi chút nào.Chúng mới ra tay ở Sydenham cách đây hai tuần.Người nhà ở đấy đã nhận diện được chúng.Thật kỳ lạ là chúng lại dám tiến hành một vụ nữa sớm như vậy. Nhưng đây chính là băng đó,chẳng còn nghi ngờ gì nữa.Lần này thì nhất định chúng khó lòng thoát khỏi giá treo cổ.Ngài Eustace Brackenstall,một trong những người giàu có nhất ở Kent,đã bị sát hại.Chúng đã dùng chính thanh cời than trong phòng đập vỡ sọ ông.Phu nhân Brackenstall hiện đang nằm trong phòng tiếp khách buổi sáng.Tội nghiệp cho phu nhân,bà đã phải một phen hãi hùng.Bà gần như chết khiếp khi tôi vừa đặt chân đến đây.Tôi nghĩ,hai ông nên gặp phu nhân,để được nghe chính bà kể lại đầu đuổi vụ này.Sau đó,chúng ta sẽ cùng xem xét phòng ăn.

Phu nhân Brackenstall quả là một người phụ nữ phi thường.Mái tóc bà vàng óng,mắt xanh,dáng người thanh tú,dung nhan thật diễm lệ.Ngay phía trên một bên mắt là một vết bầm tím,sưng vù,trông chẳng đẹp chút nào.Bà hầu đang dùng nước chườm vết thương. Còn phu nhân thì mệt mỏi nằm dài trên đi-văng,người khoác một chiếc áo choàng rộng màu xanh điểm ngân tuyến.
- Ông Hopkins,tôi đã kể hết mọi chuyện với ông rồi.Ông không thể thay tôi thuật lại được sao?Ấy,nếu ông thấy cần,tôi đành kể lại lần nữa với các quý ông mới tới này.Hai vị ấy đã vào phòng ăn chưa?
- Tôi nghĩ tốt hơn cả là nên để hai ông đây nghe phu nhân kể trước đã.
- Tôi hy vọng các ông có thể dàn xếp được mọi việc.Thật khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh nhà tôi vẫn còn nằm nguyên đó.

Phu nhân rùng mình, đưa tay che mặt một lát.Khi bà đưa tay lên,ống tay áo rộng hạ xuống tận khuỷu.Holmes thốt lên:
- Ồ,thưa phu nhân,phu nhân còn bị mấy vết thương trên tay nữa kìa!Sao thế này?

Hai vệt đỏ ửng nổi bật trên cánh tay trắng muốt tròn trĩnh của phu nhân.Bà vội kéo ống tay áo xuống che đi.
- Ồ,không có gì đâu.Mấy cái vệt này chẳng dính dáng gì đến vụ đêm qua cả.Nếu ông và các bạn ông chịu phiền ngồi xuống,tôi xin kể hết những gì tôi biết được:
Tôi là vợ huân tước Eustace Brackenstall.Chúng tôi kết hôn với nhau được gần một năm nay.Cuộc hôn nhân chẳng lấy gì làm êm thấm.Có lẽ một phần là tại tôi.Tôi lớn lên trong khung cảnh của miền nam nước Úc,vốn tự do hơn và ít lễ nghi hơn,nên tôi không thích lối sống ở Anh quốc.Nhưng lý do chính mà ai cũng biết là ông Eustace nhà tôi là một người nghiện rượu thâm căn cố đế.Sống với một con người như vậy thì dù chỉ một giờ cũng chẳng được thế nào là tình cảnh tôi,một phụ nữ nhạy cảm,lại bị trói chặt cả ngày lẫn đêm với một người như thế?

Tôi xin kể với các ông chuyện đêm qua.Tất cả người hầu kẻ hạ trong nhà này đều ở trong dãy nhà dọc mới xây.Toàn bộ tòa nhà chính được phân thành những phòng khách, còn sau lưng là nhà bếp.Ông nhà tôi cho bố trí phòng ngủ của hai chúng tôi trên lầu. Người hầu gái của tôi,bà Theresa,thì ngủ trong một căn phòng cạnh phòng chúng tôi. Ngoài bà ta ra trên lầu không còn một ai nên không một tiếng độ nào có thể vọng xuống đám gia nhân ở dưới kia.Bọn kẻ trộm chắc hẳn biết rõ điều đó;nếu không,nhất định chúng đã không dám hành động như thế.
Tối qua,ông Eustace nhà tôi lui về phòng riêng lúc 10 giờ rưỡi.Đám gia nhân cũng đều lui về phòng của họ.Chỉ còn một mình bà Theresa vẫn thức trên phòng mình,ở tầng trên cùng tòa nhà,chờ xem tôi có cần sai bảo gì không.Tôi ngồi tại căn phòng này đến quá mười một giờ,mê mải đọc sách.Rồi tôi đảo một vòng quanh nhà,để xem mọi thức đã ngăn nắp chưa,trước lúc lên gác.Tôi luôn tự mình cáng đáng việc này,vì như tôi đã nói, không phải lúc nào tôi cũng có thể cậy vào nhà tôi.
Tôi xuống nhà bếp,ghé phòng viên quản gia,lên phòng khách,rồi cuối cùng là phòng ăn.Vừa đến gần khung cửa sổ có che một tấm màn dày,tôi hiểu rằng cửa sổ để ngỏ.Tôi kéo tấm rèm sang một bên thì thấy mình đang đứng đối mặt với một gã đàn ông to ngang,đứng tuổi,vừa đặt chân vào phòng.Cái cửa sổ đó là thứ cửa sổ cao,kiểu Pháp,có thể dùng như một cửa ra vào thông ra vườn.Nhờ ánh nến từ phòng ngủ tôi hắt ra,tôi thấy còn có hai tên nữa theo vào sau lưng gã kia.
Tôi lùi lại,nhưng gã đàn ông xông vào tôi ngay.Mới đầu gã chộp cổ tay tôi tiếp đến chẹn chặt cổ.Tôi mở miệng định kêu,nhưng hắn đã đánh rất mạnh vào trán tôi ngay bên trên mắt,khiến tôi khuỵu xuống.Tôi ngất đi,chắc phải một lát sau mới tỉnh lại,lúc bấy giờ tôi thấy bọn chúng đã giật đứt một sợi dây kéo chuông và trói tôi vào chiếc ghế mức không thể cựa quậy được,rồi một chiếc khăn tay bịt quanh miệng tôi làm cho tôi không còn cách nào kêu la.Đúng lúc đó,người chồng bất hạnh của tôi bước vào phòng.Chắc ông ấy nghe thấy những tiếng động khả nghi nên đã chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó.Ông ấy mặc áo ngủ và quần dài,tay cầm chiếc gậy ưa thích.Ông ấy lao đến một gã trong băng trộm,nhưng một gã khác,gã đứng tuổi,đã kịp cúi xuống nhặt cái thanh cời than trong lò sưởi ra,và giáng mạnh một vồ khi ông ấy đi ngang qua trước mặt gã.Nhà tôi gục ngã,không còn rên nổi một tiếng,và nằm bất động không bao giờ còn dậy nữa.Tôi lại ngất đi,nhưng cũng chỉ trong vài phút.Lúc tỉnh lại,tôi thấy bọn chúng đã vơ hết từ trong tủ buýp phê ra mấy bộ đồ dọn ăn bằng bạc,mở một chai rượu cũng lôi từ đó ra. Mỗi tên cầm một cốc.Như tôi đã nói,một gã trong bọn đã đứng tuổi,có râu;hai đứa kia còn trẻ măng.Chắc chúng là ba bố con.Chúng trò chuyện với nhau khe khẽ.Xong chúng tới chỗ tôi,xem tôi đã bị trói chặt chưa.Cuối cùng,chúng chuồn ra ngoài,không quên đóng chặt cửa sổ.Mất 15 phút,tôi mới gỡ được chiếc khăn khỏi miệng.Nhờ thế,tôi mới la lên được,gọi bà hầu gái tới giúp tôi.Chúng tôi cho người đến báo cho cảnh sát đại phương.Họ lập tức báo lên London.Đó là tất cả những gì tôi có thể kể cùng quý ông,và tôi hy vọng sẽ không phải nhắc lại câu chuyện đau lòng này nữa.
- Ông có hỏi gì không, ông Holmes? Hopkins hỏi.
- Tôi không muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn và thời giờ của phu nhân Brakenstall nữa. -Holmes nói rồi anh đưa mắt về phía bà hầu gái - Trước lúc sang phòng ăn,tôi muốn được nghe câu chuyện của bà.

- Tôi đã trông thấy bọn chúng trước lúc chúng vào nhà.Khi ngồi bên cửa sổ trong phòng ngủ,tôi thấy ba người đàn ông hiện ra bên cổng dưới ánh trăng,nhưng lúc đó tôi không nghĩ bọn chúng là kẻ trộm.Hơn một tiếng sau,tôi bỗng nghe thấy tiếng bà chủ kêu,tôi mới chạy xuống và thấy bà chủ lâm vào tình cảnh đúng như bà ấy vừa kể;còn ông chủ thì nằm dưới sàn.Cảnh đó quá đủ dể làm cho một người phụ nữ mất vía,nhất là khi bị trói chặt.Nhưng phu nhân tôi không bao giờ thiếu can đảm cả.Quý ông hỏi bà chủ tôi lâu quá rồi đó ạ,nên bây giờ xin quý ông cho tôi đưa bà chủ về phòng nghỉ vì mệt mỏi quá rồi.
Như một người mẹ hiền, bà hầu phòng vòng tay qua lưng chủ, đỡ bà về phòng.
- Bà ta quấn quít với phu nhân từ nhỏ tới giờ - Hopkins nói - Chăm chút phu nhân từ khi còn là một hài nhi cho tới lúc sang Anh,khi lần đầu tiên họ rời Úc cách đây một năm rưỡi.Tên bà ấy là Theresa Wright.Ông Holmes,mời ông đi lối này.
Vẻ hào hứng biến mất trên gương mặt sinh động của Holmes,và tôi hiểu ra rằng vụ này chẳng còn lôi cuốn anh chút nào nữa vì đã hết tính chất bí ẩn ly kỳ.Nhưng cảnh tượng trong phòng ăn tại Abbey Grange đủ kỳ lạ để khơi dậy sự chú ý của anh.
Phòng này rất rộng,trần cao,ghép bằng những tấm gỗ sồi có chạm trổ,trên bốn vách tường trưng bày la liệt cả một bộ sưu tập tuyệt vời những gạc nai và vũ khí kiểu cổ. Trong góc xa nhất của căn phòng kể từ cửa ra vào là cánh cửa sổ kiểu Pháp mà chúng tôi đã được nghe kể.Ba khung cửa sổ nhỏ hơn bên tay phải làm cho căn phòng tràn ngập ánh nắng lạnh lẽo của mùa đông.Phía bên trái là một cái lò sưởi rộng,xây sâu vào tường, với những súc gỗ sồi nguyên khối viền quanh.Cạnh lò sưởi có đặt một chiếc ghế bành gỗ sồi dáng nặng nề.Luồn qua một lỗ nhỏ trên những hoa văn chạm trổ trên chiếc ghế bành ấy là một sợi thừng đỏ,được cột chặt ở cả hai bên.Khi cởi trói cho phu nhân,người ta nới rộng sợi dây,nhưng những chỗ thắt nút vẫn chưa được tháo hẳn.Tuy vậy tâm trí chúng tôi bị thu hút hoàn toàn vào các vật khủng khiếp,đang nằm dài trước mặt lò sưởi: xác của ông chủ nhà.

[FONT=&quot][/FONT]
 
L

leduyducvt1986

Vụ án mạng ở Abbey Grange



Nạn nhân là một người đàn ông cao lớn,thân hình cân đối,tuổi trạc tứ tuần.Ông ta nằm ngửa,cằm nghếch lên,hàm răng trắng lộ rõ phía dưới hai mép hơi nhếch lên sau bộ râu đen xén ngắn.Hai bàn tay nắm chặt đang ở tư thế còn giơ cao quá đầu.Một chiếc gậy nặng trích nằm vắt ngang qua giữa hai bàn tay.Trên gương mặt đẹp trai,ngăm đen hằn rõ một vẻ căm thù ghê gớm.Chắc ông đang ngả lưng trên giường khi nghe tiếng động, vì trên người vẫn còn mặc nguyên áo ngủ,và phía dưới gấu quần còn thấy rõ đôi chân đi đất.Đầu ông bị một vết thương khủng khiếp.Cạnh đó nằm chỏng chơ chiếc thanh cời than bị cong lại vì cú giáng mạnh vào đầu.Holmes xem kỹ thanh sắt và xác nạn nhân.
- Lão kia hẳn phải có sức lực phi thường,lão Randall bố ấy.-Holmes nói
- Đúng thế! - Hopkins đáp - Chúng tôi đã thu thập được một vài thông tin về lão và biết rõ lão là kẻ hết sức cộc cằn.
- Tóm cổ lão ta,chắc đối với ông sẽ chẳng có gì khó khăn.
- Không khó chút nào.Chúng tôi đã theo dõi lão từ lâu,vì lão đã tính chuồn sang Mỹ. Bây giờ,biết bọn chúng còn ở đây,tôi nghĩ bọn chúng chỉ còn cách mọc cánh mới hy vọng trốn thoát.Chúng tôi đã cho yết thị nhân dạng bọn chúng tại tất cả các hải cảng,và định chiều nay thì công bố giải thưởng cho ai tóm được.Tôi thật không thể hiểu nổi tại sao bọn chúng lại làm một chuyên điên rồ như vậy,vì chúng thừa biết sẽ bị phu nhân tả lại diện mạo,và nhất định chúng tôi sẽ nhận ra chúng.
- Đúng vậy.Tôi rất lấy làm lạ sao chúng không bắt phu nhân vĩnh viễn im lặng một thể.
- Tôi dự đoán có lẽ chúng không biết là phu nhân đã tỉnh lại.- tôi nói.
- Có lẽ thế.Vì phu nhân xem ra đã bị ngất xỉu,nên chúng không thấy cần giết.Thế còn ông chủ tội nghiệp này thì sao,ông Hopkins?Tôi nhớ hình như có nghe đồn một số chuyện kỳ quặc về ông ta.
- Khi tỉnh rượu,ông ta là người tốt bụng,nhưng hễ quá chén rồi,thì hóa thành một con quỉ dữ.Vào những lúc như vậy,ông ta có thể làm đủ mọi chuyện.Có lần,ông ta đã gây nên một chuyện rắc rối:ông ta tẩm dầu hỏa khắp người một con chó rồi châm lửa đốt, mà đó lại chính là con chó của phu nhân mới lôi thôi chứ,và người ta phải chật vật lắm mới giữ kín được vụ này.Về sau,ông ta còn ném cả một cái chai vào bà hầu phòng Theresa Wright.Chuyện này lại gây nên rắc rối.Nhìn chung,cái này tôi nói riêng với ông thôi,giá không có ông ấy thì cả nhà sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.Ông đang nhìn gì vậy?
Holmes đang quỳ gối xuống sàn hết sức chăm chú xem xét những nút thắt trên sợi thừng đỏ dùng để trói phu nhân.Tiếp đến,anh xem kỹ chỗ đầu dây sờn bị đứt ra khi bọn trộm giật sợi thừng xuống.

- Khi chúng giật sợi dây này,cái chuông dưới bếp hẳn phải vang lên rất to.
- Không một ai nghe thấy cả.Nhà bếp nằm ngay sau nhà.-Hopkins đáp
- Do đâu mà kẻ trộm biết được là sẽ không có ai nghe thấy tiếng chuông?Sao hắn lại dám liều lĩnh giật sợi dây như vậy nhỉ?
- Đúng thế,ông Holmes,đúng thế.Ông nêu lên chính câu hỏi mà tôi vẫn tự hỏi đi hỏi lại nhiều lần.Không còn ngờ vực gì nữa,kẻ đó phải biết rõ nhà này và thói quen sinh hoạt của những người đang ở đây.Chúng phải hiểu cặn kẽ tất cả gia nhân đều đang ngủ và không một ai ở dưới bếp để có thể nghe được tiếng chuông cả.Như vậy là hắn phải quen biết rõ ai đó trong đám gia nhân.Chuyện này không còn gì phải nghi ngờ nữa.Nhưng trong nhà chỉ có tám gia nhân,và hạnh kiểm của họ đều rất tốt.
- Bình thường ra người mà tôi nghi sẽ chính là kẻ bị ông Eustace ném vỏ chai rượu vào mặt:bà Theresa Wright.Tuy nhiên,nếu thế thì bà lại là kẻ phản chủ,người chủ mà bà ta hình như đã hầu hạ hết sức tận tụy.Thôi được,đó chỉ là chuyện nhỏ nhặt.Câu chuyện phu nhân kể rõ ràng là rất chính xác,nếu căn cứ vào những gì mà chúng ta đang thấy trước mắt.

Anh tiến về phía khung cửa sổ kiểu Pháp,và đẩy cả hai cánh ra:
- Chỗ này chẳng có dấu vết gì,vả lại mặt đất lại cứng như sắt nên tôi không có hy vọng tìm thấy dấu vết.Theo tôi,những ngọn nến trên mặt lò sưởi lúc đó đã được thắp sáng.
- Đúng thế,chính nhờ những ngọn nến đó và mấy ngọn nến trong phòng ngủ của phu nhân mà bọn trộm thấy đường.- Hopkins đáp
-Thế bọn chúng đã lấy đi những gì?- tôi hỏi
- Chẳng bao nhiêu.Mấy bộ đồ đã trong tủ buýp-phê.Phu nhân Brackenstall nghĩ rằng chắc bọn chúng đã hốt hoảng với cái chết của ngài Eustace.Nếu không,chắc chúng đã sục sạo khắp nhà.
- Đúng thế thật.Nhưng tôi thấy chúng đã ung dung uống rượu. – Holmes nói
- Chắc để tự trấn tĩnh thôi.
- Đúng thế.Ba chiếc cốc trên bàn chắc chưa ai động tới thì phải.
- Chưa.Cả chai rượu vẫn để nguyên như khi bọn chúng bỏ lại.
- Nào,để ta xem thử.Ồ,cái gì thế này?
Ba chiếc cốc để trên bàn nằm cạnh nhau.Một chiếc vẫn còn ít cặn dưới đáy.Chai rượu đặt bên cạnh,chỉ vơi hết một phần ba,và nằm bên cạnh là cái nút chai dài ngấm rượu rất sâu.Thái độ của Holmes bỗng đổi khác,và tôi lại thấy cặp mắt sâu và tinh của anh ánh lên vì hào hứng.Anh giơ cao cái nút chai lên ngắm nghía rất kỹ.
- Bọn chúng mở nút chai rượu bằng cách nào nhỉ?
Hopkins chỉ vào cái ngăn kéo đang mở nửa chừng,bên trong có vài chiếc khăn trải bàn vải lanh và một cái mở nút chai.
- Phu nhân Brackenstall có nói tới chuyện chúng dùng cái mở nút chai này không?
- Không.Ông không nhớ à,phu nhân đã bị ngất xỉu khi chúng mở chai rượu.
- Nhớ chứ.Thực ra cái mở nút chai này đã không được dùng đến.Chúng mở chai rượu bằng một cái mở nút loại bỏ túi,có lẽ nằm trong một con dao nhíp,và không dài quá 3 cm.Nếu ông quan sát phần trên của cái nút thì ông sẽ thấy ngay rằng cái nút chai của bọn chúng đã phải xoáy vào ba lần mới mở được chai rượu.Còn nếu dùng cái trong ngăn kéo kia thì chỉ cần một lần xoáy là được.Khi tóm được gã nọ,các ông sẽ phát hiện được rằng hắn có một con dao nhíp.
- Tuyệt!- Hopkins nói.
- Nhưng,thú thực,ba cái cốc này lại khiến tôi băn khoăn.Phu nhân Brackenstall đã từng tận mắt ba gã nọ uống rượu phải không?
- Có.Phu nhân đã kể rõ rồi còn gì.
- Vậy là câu chuyện đã kết thúc.Còn biết nói gì nữa kia chứ?Nhưng ông phải thừa nhận rằng ba cái cốc này rất đáng để ý,thưa ông Hopkins.Sao,ông không nhận thấy gì sao? Thôi được,không sao cả.Dĩ nhiên,mấy cái cốc này chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi.Thôi, chào ông Hopkins.Tôi không nghĩ rằng tôi có thể giúp ông được gì,vì với ông,vụ này coi như đã rõ cả rồi.Khi nào ông bắt được Randall,ông nhớ báo cho tôi biết,và cũng xin ông cho biết những gì có thể xảy ra sau đó nữa.Tôi hy vọng sẽ sớm được chúc mừng ông kết thúc vụ án thắng lợi.
Trên đường về,qua nét mặt của Holmes,tôi có thể thấy rõ là anh vẫn bị dằn vặt vì điều gì đó mà chính mình vừa quan sát được.Cứ mỗi lần như vậy anh lại cố gạt bỏ những ý nghĩ ấy đi và trò chuyện như thể vụ án đã rõ cả rồi.Nhưng sau đó,mối ngờ vực lại ám ảnh anh,và vẻ mặt anh cho thấy anh lại đang mải nghĩ về căn phòng ăn lớn rộng tại Abbey Grange.Cuối cùng,đúng vào lúc sắp sửa rời ga,anh bỗng nhảy phắt xuống và kéo tôi xuống theo.

- Watson thân mến ạ,cậu thứ lỗi cho tớ nhé! - Anh nói trong khi chúng tôi nhìn theo những toa cuối cùng của đoàn tàu khuất sau một khúc quanh.
- Tớ rất lấy làm tiếc là gây phiền phức cho cậu, nhưng thực tình tớ không thể để yên vụ án trong tình trạng như thế này.Mọi bản năng trời cho ở trong tôi đều lên tiếng phản đối việc đó.Không ổn rồi,sai to rồi.Tớ dám quả quyết rằng mình đã đi chệch hướng,xác nhận của bà hầu phòng cũng rất đầy đủ.Mọi chi tiết đều rất chính xác.Vậy tôi lấy gì để bác lại?Ba cái cốc,chỉ có vậy thôi.Nhưng sự thể ra sao,nếu ta không tin hoàn toàn vào những chuyện ấy?Nếu ta cứ tự xem xét sự việc một cách thận trọng,như lẽ ra ta phải làm trong trường hợp phu nhân Brackenstall không nói gì hết?Lúc bấy giờ,chẳng lẽ ta không tìm được một cái gì cụ thể hơn để điều tra tiếp hay sao?Dĩ nhiên là được.Ngồi xuống đi,Watson! Trong lúc chờ chuyến tàu quay lại Chislehurst tớ sẽ trình bày cho cậu thấy những bằng chứng.Chúng ta không nên tin vào bất cứ điều gì mà bà hầu phòng hoặc cô chủ ba ta đã nói.Đừng để cho cái nhân cách khả ái của phu nhân Brackenstall tác động đến những nhận định của chúng ta.
Chắc chắn là trong câu chuyện của phu nhân có những chi tiết mà nếu xem xét lại,ta sẽ thấy rất đáng nghi.Băng trộm này vừa làm một vụ gây xôn xao cách đây hai tuần. Một số hành tung và diện mạo của bọ chúng đã được báo chí đăng tải,nên bất cứ ai muốn dựng lên một câu chuyện trộm cắp tưởng tượng cũng đều nghĩ đến chúng.Thực ra,khi bọn kẻ trộm vừa được một vố béo bở thì thường chỉ thích ngồi yên tận hưởng món“chiến lợi phẩm”nọ,chứ không dại gì lại tiến hành một vụ mạo hiểm mới.Việc chúng đánh một người đàn bà để buộc bà ta câm miệng cũng thật lạ đời,bởi lẽ theo tớ nghĩ,đó chính là cách chắc chắn nhất để khiến bà ta kêu ầm lên.Cũng lạ đời và việc gì chúng phải giết một mạng người trong khi bọn chúng thừa sức bắt ông ta ngồi im mà không cần gây án mạng.Cũng lạ đời là tại sao bọn chúng lại mãn nguyện chỉ với vài món dọn đồ ăn bằng bạc,trong khi chúng có thể vơ vét được nhiều hơn thế nhiều.Và điều lạ đời cuối cùng là tại sao bọn chúng lại chịu vứt lại chai rượu mới uống có một ít. Tất cả những điều vừa nói đó không khiến cậu ngạc nhiên sao,Watson thân mến?
- Toàn bộ,những điều đó gộp lại thì rõ ràng là rất đáng lưu ý,nhưng nếu xét từng điểm một thì thấy chẳng có gì là lạ.
- Và bây giờ ta nói đến điều đáng chú ý nhất:mấy cái cốc uống rượu.
- Mấy cái cốc đó thì có gì là lạ?
- Người ta khai với chúng ta là cả ba đều đã uống rượu.Cậu có tin lời khai đó không?
- Sao lại không?Vết rượu vẫn còn nguyên trong cả ba.
- Đúng.Nhưng chỉ một là còn thấy cặn rượu dưới đáy.Cậu nên để ý chi tiết đó.Cậu giải thích thế nào về chi tiết này?
- Chiếc cốc có cặn là chiếc rót sau cùng.
- Ồ,không, không.Chai rượu còn đầy,nên không thể có chuyện rượu ở hai cốc đầu thì trong,còn cốc thì ba thì không.Có hai khả năng giải thích,và chỉ có thể có hai thôi.Khả năng thứ nhất:rót xong hai cốc đầu,bọn chúng đã lắc mạnh chai,rồi mới rót cốc thứ ba, nên cặn chỉ lắng xuống cốc thứ ba.Nhưng khó có chuyện đó lắm.Phải,phải.Tớ tin chắc mình hoàn toàn đúng.

[FONT=&quot]- Vậy thì cậu lý giải thế nào?
- Họ chỉ dùng có hai chiếc cốc,và đổ những giọt cuối cùng trong hai cốc này sang cốc thứ ba để tạo cho người ngoài cái ấn tượng là đã có ba người cùng uống với nhau. Chính vì vậy,nên cặn rượu chỉ thấy có ở đáy chiếc cốc cuối cùng,đúng không?Phải,tớ quả quyết sự việc đã diễn ra đúng như thế.Nhưng nếu quả như vậy được,thì có nghĩa là phu nhân Brakenstall và bà hầu phòng của phu nhân cố tình nói dối chúng ta.Không một lời nào trong câu chuyện họ kể còn có thể tin cậy được cả.Họ phải có những lý do hết sức nghiêm trọng để che giấu kẻ thủ phạm đích thực,và chúng ta chỉ còn cách phải tự mình dựng lại vụ án,chứ đừng hy vọng vào bất cứ sự giúp đỡ nào từ phía họ.Đó chính là sứ mạng mà ta phải gánh vác kể từ giờ phút này,và kìa,Watson tàu đi Chislehurst đã tới kia rồi.

[/FONT]
 
L

leduyducvt1986

Vụ án mạng ở Abbey Grange (tiếp)



Những người sống ở Abbey Grange rất sửng sốt khi thấy chúng tôi quay lại.Stanley Hopkins đã về gặp thượng cấp để báo cáo kết quả,nên Sherlock Holmes chiếm ngay lấy phòng ăn,khóa trái cửa lại và dành trọn hai giờ đồng hồ để khám xét cẩn thận mọi thứ. Tôi thì ngồi xuống một chiếc ghế kê ở góc phòng,hệt như một sinh viên chăm chỉ theo dõi thầy giáo thao diễn,và cố theo sát từng bước một tiến trình của cuộc khám phá thú vị kia.Khung cửa sổ,mấy tấm rèm,chiếc thảm,chiếc ghế,rồi sợi dây,tất cả đều lần lượt được xem xét tỉ mỉ.Thi thể huân tước Eustace đã được mang đi rồi,nhưng mọi thứ vẫn còn được giữ nguyên như chúng tôi đã thấy sáng nay.Thế rồi,trước sự ngạc nhiên của tôi, Holmes trèo lên mặt cái lò sưởi rộng.Trên đầu anh lủng lẳng một đoạn dây giật chuông màu đỏ, dài chừng vài phân, vẫn còn buộc chặt vào sợi dây thép nối liền với cái chuông treo dưới nhà bếp.
Sherlock Holmes ngắm nó hồi lâu,rồi để vươn người lên cho gần thêm chút nữa,anh tì hẳn gối vào một đường gờ bằng gỗ áp trên tường.Nhờ vậy tay anh chỉ còn cách đầu sợi dây thừng vài phân,nhưng việc đó không khiến anh chú ý bằng cái rầm chìa trên tường. Xong xuôi,anh nhảy xuống,miệng khẽ reo lên một tiếng tỏ ý mãn nguyện.
- Ổn cả rồi,Watson ạ! - anh nói - Chúng ta đã khám phá được một trong những vụ án thú vị nhất trong bộ sưu tập của chúng ta.Nhưng tớ thật tối dạ,vì suýt nữa phạm phải một sai lầm tệ hại nhất đời mình!Bây giờ tôi nghĩ chỉ còn thiếu vài khâu bị mất nữa là tớ đã có trong tay hầu như toàn bộ chuỗi sự kiện.
- Cậu đã dò ra được các hung thủ?
- Chỉ một thôi,Watson,một hung thủ thôi.Một thôi,nhưng là một kẻ đáng gờm.Hắn khỏe như gấu,cái thanh cời than bị bẻ cong kia là một minh chứng.Cao lớn,nhanh như sóc, khéo tay kinh khủng.Ngoài ra,còn tinh khôn rất mực,vì chính hắn đã dàn dựng nên toàn bộ vở kịch tài tình này.Có điều trên sợi dây kéo chuông kia,chính hắn đã để lại dấu vết của riêng mình,giúp chúng ta có được một đầu mối để loại bỏ hết mọi ngờ vực.
- Thế cái đầu mối đó nằm ở đâu?
- Thế thì cậu nghe đây,Watson.Nếu cậu giật sợi dây chuông thì cậu thử liệu xem nó sẽ đứt ở đoạn nào?Rõ ràng nó sẽ đứt ở chỗ nối với sợi dây thép.Vậy thì sao nó lại đứt ở cách chỗ ấy tám phân như anh đã thấy?
- Vì chỗ đó bị sờn?
- Đúng.Đầu dây này,như chúng ta đã xem xét,quả có bị sờn thật.Và gã nọ quả đã đủ tinh quái,nên hắn mới dùng dao để làm cho sợi dây có vẻ như bị sờn.Nhưng đầu ở trên kia thì không.Đứng đây,cậu không thể thấy được đâu,nhưng nếu trèo lên lò sưởi,sẽ thấy rõ nó đã bị cắt, chứ chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là bị sờn cả.Bây giờ,cậu có thể tự mình tái lập được mọi diễn tiến.Hung thủ cần một sợi dây.Hắn không thể giật xuống vì sợ chuông rung,đánh động mọi người.Hắn phải làm gì?Trèo lên lò sưởi,nhưng vẫn không với tới,nên phải tỳ đầu gối vào đầu rầm chìa,anh sẽ thấy dấu vết in lại trên lớp bụi ngoài đó,vì từ chỗ tôi còn thấp hơn ít nhất 8 cm nữa.Bởi vậy,hắn phải cao hơn tớ ít nhất 8 cm. Này bây giờ cậu thử nhìn xem vết gì trên mặt chiếc ghế bành gỗ sồi?Vết gì?
- Vết máu.
- Đúng là vết máu.Chỉ riêng chi tiết này thôi cũng đủ cho thấy:câu chuyện của phu nhân Brackenstall là chuyện bịa nếu bà ta đã bị trói vào đó trước lúc hung thủ giết ông chồng. Ước gì được trò chuyện ngay bây giờ với bà vú nuôi Theresa.Chúng ta phải thật thận trọng,nếu chúng ta muốn thu thập được những thông tin mình muốn.
Bà ta,bà vú nuôi người Úc nghiêm nghị ấy,quả là một nhân vật đáng chú ý.Bà ta đa nghi và ít thiện ý,nên thái độ hòa nhã của Holmes phải mất một thời gian mới chiếm được thiện cảm của bà.Bà chẳng hề giấu giếm lòng căm ghét cả bà đối với ông chủ quá cố.
- Vâng,thưa ngài,quả tình ông ấy có ném cái vỏ chai vào tôi.Tôi thấy ông ấy lăng mạ bà chủ tôi,nên tôi bảo thẳng với ông ta rằng giá anh trai bà chủ có mặt ở đây thì ông ta đừng hòng ăn nói như thế.Vậy là tôi bị ông ấy ném thẳng cái vỏ chai vào mặt.Ông ấy thường xử tệ với phu nhân Brakenstall,mà bà chủ tôi vốn kiêu hãnh,không bao giờ than phiền.Bà ấy thậm chí cũng không kể cho tôi nghe những cách hành hạ của ông ta đối với bà.Ngay cả những vết bầm trên tay mà ông thấy sáng nay cũng vậy,như tôi biết rõ chính là vết đinh ghim mũ.Ông ấy tỏ ra hết sức dịu dàng hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu chỉ mới cách đây có mười tám tháng.Nhưng cả hai chúng tôi lại cảm thấy mười tám tháng ấy dài chẳng khác nào mười tám năm.
Hồi đó,bà chủ tôi vừa chân ướt chân ráo tới London.Vâng,đó là lần xa nhà đầu tiên, chứ trước đó phu nhân chưa bao giờ đi đâu cả.Ông ấy đã dùng tước vị,tiền bạc và cả thủ đoạn giả dối để chiếm đoạt bà chủ.Lấy ông ta,bà ấy đã phạm một sai lầm,và bà ấy đã trả giá xong cho sự sai lầm ấy.Ông hỏi:chúng tôi gặp ông ấy hồi tháng nào đúng không ạ? Thế thì xin thưa là chúng tôi gặp ông ta ngay sau ngày đến:chúng tôi sang hồi tháng 6, và gặp ông ta hồi tháng 7.Ông ấy cưới bà chủ tôi vào tháng Giêng năm ngoái.Vâng bà chủ vẫn đang nằm nghỉ dưới phòng khách,và dĩ nhiên sẽ vui lòng gặp ngài.Nhưng xin ngài đừng gạn hỏi bà ấy nhiều,vì bà ấy vừa phải chịu đựng hết thảy những gì ít người phàm trần đủ sức kham nổi.
Phu nhân Brakenstall vẫn nằm trên chính chiếc đi-văng đó,nhưng trông đã đỡ thất sắc hơn hồi sáng,bà hầu phòng cũng theo vào cùng chúng tôi;và bắt tay vào thay tấm khăn chườm lên trán cô chủ.

- Tôi hy vọng rằng ông đến đây không phải để thẩm vấn tôi lần nữa?
- Ồ,không! - Holmes đáp,giọng hết sức lịch sự - Tôi sẽ không quấy rầy bà thêm nữa đâu,thưa phu nhân Brakenstall.Tôi chỉ muốn cất đỡ gánh nặng cho phu nhân thôi.
-Vậy ông muốn tôi phải làm gì?

- Kể hết sự thật.
- Ông Holmes!”
- Ồ,không,không,phu nhân Brakenstall làm như vậy hoàn toàn vô ích.Tôi biết chắc rằng câu chuyện của phu nhân kể là hoàn toàn sai sự thật.
Cả phu nhân Brakenstall lẫn bà hầu phòng đều chằm chằm nhìn Holmes,mặt tái đi,ánh mắt lộ vẻ sợ hãi.
- Ông thật là thô lỗ!- bà Theresa kêu lên - Ông muốn ám chỉ bà chủ tôi đã nói dối?
Holmes đứng ngay dậy.
- Phu nhân không có gì để kể với tôi sao?
- Tôi kể hết với ông rồi còn gì.
- Mong phu nhân nghĩ lại,phu nhân Brakenstall.Chân thật,tôi nghĩ,sẽ tốt hơn nhiều.
Một thoáng lưỡng lự lướt qua gương mặt kiều diễm của phu nhân.Nhưng rồi một quyết định mới khiến khuôn mặt ấy cứng lại như thể đeo mặt nạ.
- Tôi đã kể hết với ông những gì mình biết.
Holmes cầm lấy mũ,nhún vai.
- Tôi rất lấy làm tiếc – Holmes nói.

Rồi không thốt thêm một lời nào nữa,chúng tôi rời khỏi phòng,ra về.Trong khu vườn có một cái ao,và bạn tôi lôi tôi đi về phía đó.Mặt ao đóng băng gần hết,và chỉ còn chừa một khoảnh nhỏ dành làm nơi trú đông có một con thiên nga cô độc.Holmes nhìn chòng chọc vào vũng nước nhỏ đó một lúc,rồi đi tiếp về phía cổng vườn.Dừng chân bên cổng, Holmes viết vội một mẩu tin ngắn,trao cho người gác cổng,nhờ chuyển lại cho ngài Stanley Hopkins.
- Chúng ta có thể hoặc trúng đích,hoặc chệch mục tiêu,nhưng đằng nào cũng phải làm được một chút gì giúp ông bạn Hopkins,dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ hai.Tuy vậy tớ vẫn chưa dám tiết lộ hết bí mật với ông ấy.Tớ nghĩ,bây giờ nơi kế theo mà ta cần đến để điều tra vụ này là văn phòng của Hãng Hàng hải Adelaide -Southampton.
Qua viên Giám đốc,Holmes nhanh chóng thu thập được mọi thông tin cần biết.Vào tháng sáu năm 1895,hãng chỉ có duy nhất một con tàu cập bến Anh quốc.Đó là chiếc “Rock of Gibraltar”,con tàu lớn và đẹp nhất hãng.Bản danh sách hành khách cho thấy: cô Fraser xứ Adelaide cùng bà hầu của cô đã đi chuyến này.Hiện thời con tàu đang chạy ngang qua một nơi thuộc mạn nam kênh Suez,trên hải trình sang Úc như lệ thường. Thành phần sĩ quan trên con tàu vẫn giống hệt như hồi năm 1895,ngoại trừ một điều: viên phó thuyền trưởng,ông Jack Croker,đã được đề bạt lên cấp thuyền trưởng và chuyển sang chỉ huy con tàu mới của hãng,chiếc “Bass Rock”,hai ngày nữa sẽ rời Southampton.Viên sĩ quan này hiện sống tại Sydenham,nhưng sáng nay anh ta có lẽ sẽ đến đây,và nếu chúng tôi muốn thì có thể chờ gặp anh ta.Tuy nhiên,Holmes lại không có ý định gặp mà lại hỏi thêm về lý lịch và hạnh kiểm của anh ta.
Lý lịch của anh ta tuyệt hảo.Trong hạm đoàn,không một sĩ quan nào được đánh giá cao như thế.Còn về hạnh kiểm,tuy anh ta là một người ngông cuồng,liều lĩnh khi lên bờ, nóng nảy,dễ bị kích động,nhưng lại là một sĩ quan đáng tin cậy lúc thi hành phận sự, cương trực,chân thành và tốt bụng.Nắm được những thông tin dó,chúng tôi rời văn phòng hãng Adelaide Southamton,và vòng tới sở điện tín Charing Cross.Holmes gửi một bức điện,rồi chúng tôi lại quay về phố Baker.
Gần tối,viên thanh tra Staley Hopkins ghé thăm chúng tôi.Công việc của ông rõ ràng chẳng mấy suôn sẻ.
- Ông Holmes,ông quả là một pháp sư.Thỉnh thoảng tôi nghĩ thầm ông có một sức mạnh siêu phàm.Này,nhờ đâu mà ông biết được những bộ đồ bằng bạc bị đánh cắp đó chúng đã vứt xuống đáy ao?
- Thật vậy sao?Thế mà tôi không biết đấy.
- Nếu vậy thì tại sao ông lại dặn tôi thử mò đấy ao?
- Ông đã vớt lên được rồi chứ gì?
- Phải,đúng thế.
- Tôi rất lấy làm mừng là đã giúp được ông.
- Nhưng ông có giúp gì tôi đâu!Ông làm cho vụ án rắc rối thêm thì có.Làm gì có thứ kẻ trộm cố vơ vét đồ đạc bằng bạc,lại đem vứt xuống cái ao gần nhất?
- Quả là một hành vi khá kỳ quặc.Tôi chỉ có ý là chỗ đồ bạc lấy đi chỉ để đánh lạc hướng chúng ta.Vì thế, dĩ nhiên,bọn chúng chỉ muốn vứt bỏ nó đi cho nhanh.
- Nhưng tại sao ông lại đi đến ý nghĩ đó?
- Ồ,tôi nghĩ đó là chuyện có thể có được.Khi chúng tẩu thoát qua cái cửa sổ kiểu Pháp, ngay trước mặt chúng đã hiện ra một cái ao.Trên mặt ao lại có một chỗ nước chưa đóng băng đầy sức quyến rũ.Tìm đâu ra một nơi cất giấu tốt hơn thế?
- À,một nơi cất giấu!Hay quá! - Stanley Hopkins reo lên - Vâng,vâng,giờ thì tôi hiểu hết cả rồi!Dọc đường sẽ có người,chúng sợ chạm trán với họ giữa lúc đang mang mấy bộ đồ ăn bằng bạc,nên chúng vội tẩu tán tang vật xuống ao chờ dịp thuận tiện sẽ quay lại lấy lên.Tuyệt quá,ông Holmes ạ.Ý tưởng này đắc địa hơn ý tưởng lúc đầu.Nhưng tôi vẫn vướng phải một trở ngại lớn.
- Trở ngại?
- Đúng thế,ông Holmes ạ.Băng Randall vừa bị bắt sáng nay tại New York.
- Trời ơi,ông Hopkins!Vậy thì rõ ràng giả thuyết của ông về việc bọn này gây ra vụ án mạng tại Kent tối qua đã hoàn toàn đổ vỡ.
- Ông Holmes, đó quả là một đòn chết người,thực sự chết người.Tuy vậy,chắc là còn có nhiều băng trộm khác,ngoài bọn Randall,cũng gồm ba tên,hoặc có một băng mới nào đó nữa,mà cảnh sát chưa hề nghe nói.
- Có lẽ thế.Rất có thể là đúng thế thật.Nếu vậy thì ông còn phải điều tra tiếp?
- Vâng,ông Holmes.Tôi còn chưa được nghỉ ngơi chừng nào vẫn chưa làm sáng tỏ ngọn ngành vụ này.Tôi hy vọng ông sẽ vui lòng gợi cho tôi một ý tưởng nào hay hay?
- Thì tôi đã mách cho ông rồi đấy thôi.
- Mách gì kia?
- Phải,tôi đã nói với ông là bọn chúng cố đánh lạc hướng.

- Nhưng để làm gì,ông Holmes,để làm gì?
- À,dĩ nhiên,đó chính là vấn đề.Nhưng ông có thể thấy là có một cái gì trong đó.Ông không thể ở lại dùng cơm với chúng tôi à?Vậy thì xin tạm biệt ông,và nhớ cho chúng tôi biết kết quả cuộc điều tra.

 
L

leduyducvt1986

Vụ án mạng ở Abbey Grange(tiếp và hết)

Ăn tối xong,Holmes châm một tẩu thuốc,rồi đưa chân lại gần ánh lửa đang reo vui trong lò sưởi.Thình lình anh liếc nhìn đồng hồ.
-Tớ đang chờ một sự việc nữa xảy ra,Watson ạ.
- Bao giờ?
- Chỉ vài phút nữa thôi.Chắc lúc này cậu đang nghĩ rằng tớ đã đối xử không phải với Stanley Hopkins đúng không?
- Tớ tin vào sự phán đoán của cậu.


- Một lời đáp thật tế nhị.Watson,cậu phải nhìn sự việc theo cách sau đây: những gì tớ biết chỉ mang tính chất riêng tư,còn những gì ông ta biết lại là chuyện công vụ.Tớ có quyền phán đoán theo cách của riêng tớ còn ông ta thì không thể.Ông ta phải phơi bày hết thảy mọi chuyện,nếu không sẽ bị xem là không làm tròn công vụ.Trong một vụ còn nhiều ngờ vực,tớ không thích đẩy ông ta vào một tình thế khó xử,và vì vậy,tớ phải giữ kín mọi thông tin cho tới lúc nội vụ đã được làm sáng tỏ.
- Nhưng đến bao giờ thì mới sáng tỏ?
- Sắp rồi.Cậu sắp được chứng kiến màn chót của một vở kịch nhỏ đặc sắc.
Có tiếng chân lên cầu thang,rồi cửa mở và một người đàn ông trẻ tuổi,cao lớn xuất hiện.Khách là một chàng trai để ria vàng,mắt xanh,da rám nắng.Anh đóng cửa lại,rồi đứng yên,hai tay nắm chặt lại như đang cố nén một cảm xúc mãnh liệt nào đó.
- Mời ông ngồi,thuyền trưởng Croker.Chắc ông đã nhận được bức điện?
Vị khách gieo phịch người xuống chiếc ghế bành,rồi đưa cặp mắt dò xét hết nhìn tôi lại nhìn Holmes.
- Tôi vừa nhận được bức điện,và đến đúng giờ ông đã chỉ định trong bức điện.Tôi nghe nói ông có đến đằng văn phòng.Thật chẳng có cách nào lẩn tránh được ông.Tôi sẵn sàng nghe những lời phán xử tồi tệ nhất.Ông định xử lý với tôi thế nào đây?Bắt tôi?Ông nói đi!Chứ đừng ngồi đó mà đùa giỡn với tôi như mèo vờn chuột.
- Tôi sẽ không ngồi đây phì phèo tẩu thuốc trước mặt ông nếu tôi cho ông là một tên tôi phạm,ông có thể tin chắc như vậy. - Holmes nói - Hãy thành thực với tôi, thì ông và tôi sẽ có thể làm một việc gì tốt đẹp.Còn nếu ông định giở trò lừa gạt tôi,thì tôi sẽ triệt hạ ông ngay.
- Xin ông cho biết: ông muốn tôi làm gì?
- Thuật lại một cách trung thực cho tôi nghe những gì đã diễn ra tại Abbey Grange tối qua,không thêm,không bớt.Tôi đã biết đủ tới mức nếu ông kể sai sự thật dù chỉ một chút,là tôi sẽ gọi cảnh sát,và thế là vụ này sẽ vĩnh viễn vuột khỏi tầm tay tôi đấy.
Chàng thuyền trưởng đăm chiêu một lúc,rồi nắm chặt bàn tay to,rám nắng giáng mạnh một cái xuống đùi.
- Thôi,đành liều vậy.- anh thốt lên - Tôi tin ông là người trọng lời hứa,nên xin kể cho ông nghe hết câu chuyện.Nhưng trước tiên,tôi phải nói điều này.Tôi chẳng ân hận,mà cũng chẳng sợ hãi bất cứ điều gì.Ví thử phải làm lại từ đâu,tôi cũng sẽ làm đúng như vậy,sẽ lấy làm tự hào vì đã làm như thế.Nhưng hễ nghĩ tới chuyện mình sẽ gây rắc rối cho Mary Fraser,là lòng tôi lập tức thấy hãi hùng.Tôi sẵn sàng đổi mạng sống của mình để được nhìn thấy gương mặt thân yêu của nàng một nụ cười tươi vui.Tôi phải kể lùi câu chuyện lại một chút.Ông hình như đã biết hết mọi chuyện,vì vậy,tôi nghĩ ông đã biết tôi gặp nàng khi nàng là một hành khách,còn tôi là phó thuyền trưởng trên tàu “Rock of Gibraltar”.Ngay từ lần đầu gặp nàng,nàng đã trở thành người phụ nữ duy nhất của đời tôi.Và càng ngày,tôi càng yêu thương nàng hơn trong suốt cuộc hành trình đó. Tôi thường quỳ trong bóng tối và hôn lên boong tàu,vì tôi biết rằng chân nàng đã đi qua đó.Nàng chẳng bao giờ có tình cảm đặc biệt với tôi.Nàng cư xử với tôi tử tế,như bất cứ người đàn bà nào cũng có thể đối xử với một người đàn ông.Tôi không có điều gì phải trách cứ nàng.Về phía tôi là một tình yêu toàn tâm,còn về phía nàng chỉ là thiện cảm và tình bằng hữu.Khi chúng tôi chia tay nhau,nàng vẫn là một cô gái tự do,còn tôi thì không bao giờ còn có thể thấy mình tự do được nữa.
Sau ngày trở về từ chuyến đi kế tiếp,tôi được tin nàng đã lấy chồng.Ồ,sao nàng lại không được quyền lấy người nàng yêu kia chứ?Tôi chẳng đau buồn gì về cuộc hôn nhân đó.Tôi không phải là một kẻ vị kỷ.Tôi chỉ mừng vì hạnh phúc đã mỉm cười với nàng,và khỏi chứng kiến cảnh nàng phải gắn bó đời mình với anh chàng thủy thủ nghèo khổ.Tôi yêu Mary Fraser say đắm đến thế đấy!
Ồ,tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ được gặp lại nàng.Nhưng rồi tôi bỗng được thăng chức sau chuyến đi mới đây.Con tàu mới chưa được hạ thủy vì vậy,tôi phải về nhà ở Sydenham vài tháng trong lúc chờ đợi.Một hôm,đang đi dạo trên đường làng,tôi bỗng gặp Theresa Wright,bà hầu già của nàng.Bà ta kể cho toi nghe về nàng,về lão ta,về mọi chuyện.Thưa quý ngài,tôi phải cho quý ngài hay rằng tôi suýt phát điên,khi biết gã ******** nghiện ngập đó đã dám đánh nàng,thiên thần của tôi!Tôi gặp lại bà Theresa.Rồi gặp chính Mary,rồi lại gặp nàng lần thứ hai.Sau đó,nàng không cho tôi gặp nữa.Nhưng gần đây tôi có nhận được một thông báo:một tuần nữa tôi sẽ phải lên đường.Vì thế,tôi quyết định phải gặp lại nàng lần nữa trước ngay rời Anh quốc.Tôi bao giờ cũng coi bà Theresa như bạn,vì bà cũng yêu Mary và cũng căm ghét cái lão hung ác nọ chẳng thua kém gì tôi.Qua bà ấy,tôi biết rõ đường đi lối lại trong nhà.Mary thường ngồi đọc sách trong căn phòng nhỏ của nàng ở tầng trệt.Tối qua,tôi đi vòng qua đó,rồi cào vào cửa sổ ra hiệu.Thoạt tiên nàng không mở cửa.Nhưng tôi biết bây giờ nàng đã thầm yêu tôi và không nỡ để tôi phải đứng trong bóng tối giá rét.Nàng thầm bảo tôi hãy vòng ra cánh cửa sổ lớn ở phía trước.Tôi thấy cửa đã mở sẵn,để tôi có thể trèo vào phòng ăn.Vâng, thưa quý ngài,tôi đang đứng với nàng bên cửa sổ thì lão ta lao vào,như một thằng điên. Lão chửi nàng một câu thậm tệ,rồi giơ cao chiếc gậy đang lăm lăm trong tay,lão vụt vào mặt nàng.Tôi chồm tới,vớ lấy thanh cời than và giữa hai chúng tôi đã nổ ra một cuộc đọ sức sòng phẳng.Ông nhìn đây,trên tay tôi vẫn còn nguyên dấu vết chiếc gậy của lão,vì lão ra đòn trước.Tôi không chút ân hận.Bởi lẽ đây là chuyện một mất một còn;hoặc là lão,hoặc là tôi.Và hơn thế nữa: hoặc là tính mạng của lão ấy,hoặc là tính mạng của nàng,vì làm sao tôi có thể phó mặc nàng cho cái lão điên rồ ấy?Tôi đã giết lão như vậy đấy.Tôi có sai trái không?Ấy,thử hỏi hai ông thì hai ông sẽ làm gì, nếu ở vào địa vị tôi?
Nàng đã thét lên khi bị lão đánh,nên bà Theresa nghe thấy vội chạy xuống.Thấy trong tủ buýp-phê có một chai rượu,tôi liền lấy ra,mở nút,đổ vài giọt vào miệng Mary, vì nàng đang bất tỉnh do bị choáng.Rồi cũng uống một hớp.Bà Theresa thì bình tĩnh như không, và cách khai báo với cảnh sát chính là do tôi và bà ta nghĩ ra.Chúng tôi buộc phải làm cho người ta tưởng vụ án mạng do bọn trộm gây nên.Trong lúc tôi trèo lên cắt sợi dây chuông,thì bà Theresa cứ nhắc đi nhắc lại cho Mary thuộc lòng câu chuyện bịa đặt kia. Sau đó,tôi trói nàng vào chiếc ghế,làm xơ dầu dây cho có vẻ tự nhiên.Nếu không người ta sẽ phải tự hỏi:làm cách nào mà tên trộm có thể leo lên tận đó?Rồi tôi vơ vội một vài bộ ấm chén,thìa đĩa bằng bạc,làm ra vẻ đây là một vụ trộm.Tôi để Mary và bà Theresa ở lại,dặn họ chỉ hô hoán sau khi tôi đã rời khỏi nhà mười lăm phút.Tôi vứt những bộ đồ ăn bằng bạc xuống ao và về lại Sydenham,lòng mãn nguyện vì đã làm một việc tốt thật sự. Đó là sự thật,ông Holmes ạ,dù tôi có phải trả giá cho nó bằng tính mạng của tôi chăng nữa.
Holmes trầm ngâm hút thuốc và im lặng hồi lâu.Rồi anh tiến đến bắt tay viên thuyền trưởng.
- Tôi biết mỗi lời ông nói ra đều đúng sự thật,vì ông không cho tôi biết thêm một điều gì mới lạ cả.Ngoại trừ một thủy thủ không một ai có thể thắt được những nút buộc chặt đến thế khi trói phu nhân Brackenstall vào chiếc ghế bành.Mà phu nhân thì chỉ mới gặp dân thủy thủ đúng một lần hồi bà đáp tàu sang Anh.Và người đó ắt phải cùng giai tầng với bà vì bà đã cố che chở,và điều này cho thấy bà rất yêu con người đó.Ông thấy đấy, tôi đã dễ dàng tìm ra dấu vết ông, một khi tôi đã đi đúng đường.
- Tôi nghĩ rằng cảnh sát sẽ không bao giờ phát hiện được sự thật qua câu chuyện chúng tôi bày ra.
- Và quả nhiên họ đã không phát hiện được,và tôi không tin là họ sẽ phát hiện được. Thuyền trưởng Croker,vụ này rất nghiêm trọng,tuy tôi sẵn lòng thừa nhận ông đã hành động như một trang quân tử.Tôi rất có thiện cảm với ông,cho nên nếu ông chọn phương án là sẽ rời khỏi Anh quốc sau hai mươi bốn tiếng nữa,tôi xin hứa ông sẽ không bị một ai cản trở.
- Sau đó ông sẽ báo cho cảnh sát?
- Dĩ nhiên.
Sắc mặt viên thuyền trưởng vụt ửng đỏ vì phẫn nộ.
- Sao ông lại đề nghị với tôi kỳ cục như vậy?Tôi biết rõ luật pháp nên thừa hiểu Mary sẽ bị bắt vì tội đồng lõa.Ông tưởng tôi sẽ bỏ mặc nàng để tẩu thoát một mình sao?Ồ, không,thưa ông.Cứ để mặc họ muốn làm gì tôi thì làm,nhưng ông Holmes,xin ông vì Chúa,hãy nghĩ cách giúp Mary tội nghiệp của tôi khỏi phải ra tòa.
Holmes lại chìa tay lần nữa cho viên thuyền trưởng.
- Tôi chỉ thử lòng ông vậy thôi.Được rồi,tôi xin nhận cái trọng trách ông trao cho tôi, nhưng tôi đã cho Hopkins một lời gợi ý rất đáng giá,và nếu ông ấy không biết khai thác cái ý đó,thì tôi không thể làm gì hơn.Nào,thuyền trưởng Croker,bây giờ chúng ta sẽ làm đúng thể thức của tòa án.Ông là bị cáo,còn Watson,cậu là bồi thẩm đoàn, tôi không thấy ai thích hợp hơn cậu để đảm nhận vai này.Tôi là chánh án.Vâng,thưa các vị trong bồi thẩm đoàn,các vị đã nghe lời khai,các vị thấy bị cáo có tội hay vô tội?
- Vô tội!- tôi nói.
- Vậy ông được trắng án,thuyền trưởng Croker ạ.Và trong khi luật pháp chưa tìm được một con mồi nào khác,thì ông được hoàn toàn bình yên vô sự từ phía tôi./.
 
S

sunkeovip

Đọc muốn buồn ngủ |-)
chả rút ra được bài học gì cả :rolleyes: mình góp ý nhá : bạn nên kể những câu chiện có liên quan đến thực tế để lứa tuổi 9x chúng mình có được những bài học hay !!! :khi (186)::khi (55):
 
Top Bottom