Tập Làm Văn

H

hoan1793

I. Mở bài:
- Giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào cuả dân tộc ta, người đã viết nên kiệt tác Truyện Kiều bất hủ. Câu chuyện kể về cuộc đời của người con gái tài sắc mà phải chịu bao trầm luân khổ ải.
- Giới thiệu đoạn trích: Một trong những đoạn thơ xuất sắc nhất trong truyện là đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát đoạn trích:
24 câu thơ lục bát ghi lại cảnh thiên nhiên, đặc biệt là tâm trạng, tình cảm của nàng Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích sau khi nàng vừa trải qua bao nhiêu biến cố và chưa biết tương lai sẽ thế nào.
2. Phân tích cụ thể:
a) Mở đầu đoạn trích là bức tranh thiên nhiên nơi có lầu Ngưng Bích mà Kiều đang bị giam lỏng:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng
- Bức tranh được thi nhân “vẽ” bằng những từ ngữ và hình ảnh rất chọn lọc, gợi cảm
- Cảnh đẹp nhưng buồn, hoang vắng, không có một bóng người, chỉ mình Kiều trơ trọi trước không gian vắng lặng.
- Tâm sự của nàng ngổn ngang, đặc biệt là cảm giác bẽ bàng, xấu hổ bởi những việc vừa trải qua.
b) Trong hoàn cảnh ấy, Kiều nhớ về cha mẹ và người yêu:
- Trước hết, nàng nhớ đến người yêu:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
- Kiều tưởng như đang nhìn thấy trước mắt mình
cảnh dưới trăng đêm nào, nàng cùng chàng Kim
uống chén rượu thề nguyền. Chén rượu thề
nguyền còn chưa ráo, vầng trăng vẫn còn kia mà
Kim và Kiều đã mãi mãi cách xa. Nỗi nhớ người
yêu da diết, nỗi đau đớn vì mối tình tan vỡ đang
vò xé lòng nàng.
- Kiều hình dung cảnh chàng Kim, nơi quê nhà ở đất Liêu Dương đang ngày đêm chờ trông tin nàng. Thành ngữ “rày trông mai chờ” giàu sức gợi thể hiện nỗi mong chờ, lo lắng khắc khoải của chàng Kim.
Có lẽ chàng Kim sẽ đau đớn lắm nếu nhận
được tin dữ: Kiều đã bán mình chuộc cha.
Nghĩ như vậy, lòng nàng càng đau đớn,
càng bị vò xé khôn nguôi.

- Kiều băn khoăn tự hỏi lòng mình: giờ đây nàng bị đẩy đến nơi góc bể chân trời, biết bao giờ mối tình với chàng Kim mới có thể nhạt phai. Câu hỏi tu từ có ý nghĩa khẳng định, chẳng bao giờ nàng có thể quên được chàng Kim, chẳng bao giờ nàng quên được mối tình đầu đẹp đẽ
→Tuy chỉ bốn dòng thơ nhưng chất chứa được bao nỗi nhớ, niềm thương đối với người yêu. Sau này Kiều còn nhiều lần (bốn lần nữa) nhớ chàng Kim nhưng không có lần nào da diết bằng.
- Nhớ cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nhớ người yêu rồi mới nhớ cha mẹ, không phải Kiều coi người yêu hơn cha mẹ mà bởi nàng có những lý do riêng.
Việc miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho người yêu trước rồi mới đến cha mẹ là hoàn toàn phù hợp với tâm trạng, tình cảm của nàng lúc này. Đồng thời cũng chứng tỏ, Nguyễn Du là bậc thầy về tâm lý, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với nhân vật.
- Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều đau đớn xót xa. Nhà thơ đã đặt từ “xót” đứng ngay đầu dòng thơ, đoạn thơ để nhấn mạnh nỗi lòng Kiều lúc này. Nàng xót xa vì nhiều nỗi:
+ Xót vì biết cha mẹ đang ngày đêm tựa cửa mong chờ tin con. Nàng hiểu thấu nỗi lòng cha mẹ.
+ Xót vì cha mẹ không có người chăm sóc phụng dưỡng.
+ Xót vì cha mẹ tuổi cao sức yếu.
→Tám dòng thơ gợi cảm hàm súc, diễn tả nỗi nhớ cha mẹ và người yêu với những lý do nhớ khác nhau, cho ta thấy Kiều là người tình chung thuỷ, người con hiếu thảo, nàng lúc nào cũng lo cho người khác, nàng giàu lòng vị tha và đức hy sinh
c. Nỗi buồn của Kiều về thân phận: Đoạn thơ gồm 4 cặp câu có cấu trúc giống nhau, đều mở đầu bằng từ “buồn trông”. Đều là nỗi buồn về thân phận nhưng lại mang sắc thái khác nhau.
- Cặp thơ thứ nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

+ Cảnh: cửa bể lúc chiều hôm, vẫn còn một cánh buồm thấp thoáng, ẩn hiện nơi xa, chưa tìm về bến đỗ. Không gian, thời gian, cảnh vật được miêu tả qua các từ láy gợi nỗi buồn vốn đã có sẵn trong lòng Kiều.

+ Tình: Kiều cảm nhận nỗi cô đơn, bơ vơ
nơi đất khách quê người. Nàng cũng như con
thuyền kia đang lênh đênh trên biển cả chưa biết
về đâu.
Cặp thơ thứ hai:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
+ Cảnh: một bông hoa trôi dạt dập dềnh trên dòng nước. Từ láy và câu hỏi tu từ gợi cảm xúc.
+ Tình: Kiều liên tưởng cuộc đời mình cũng như bông hoa kia đã bị người đời ngắt ra khỏi cành, ném ra giữa dòng đời. Nàng cảm thấy buồn tủi, đau đớn vì thân phận bị dập vùi, đồng thời lo lắng không biết tương lai sẽ thế nào? Câu hỏi và từ dùng để hỏi đặt cuối câu xoáy vào lòng nàng nỗi buồn trước cuộc đời vô định.
Cặp thơ thứ ba:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
+ Cảnh: đồng cỏ cuối mùa ủ rũ xanh nhợt nhạt nối liền với chân mây tạo bức tranh lạnh lẽo, đơn điệu, thiếu sức sống. Hai từ láy điệp hoàn toàn âm tiết có sức gợi tả, gợi cảm.
+ Tình: Kiều buồn bởi cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, không niềm tin, hy vọng. Thậm chí, người con gái 16 tuổi này cảm thấy chán chường, tuyệt vọng muốn chết.
Cặp thơ thứ tư: Nàng nhìn hướng cuối cùng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
+ Cảnh: gió từ biển thổi vào làm mặt nước duềnh lên, tiếng sóng biển đập ầm ầm bốn phía.
+ Tình: từ buồn chuyển thành lo sợ, hốt hoảng. Nàng Kiều tưởng mình đang ngồi trên biển sóng. Tác giả dùng từ láy chỉ âm thanh đặt ở đầu câu, lại dùng từ “sóng kêu” diễn tả nỗi hoảng sợ thật sự của Kiều, nàng tưởng như cuộc đời đang réo gọi nàng, đang bủa vây nàng, sắp nuốt chửng nàng.

→ 8 dòng thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên, đặc biệt là bức tranh tâm tình nàng Kiều thật xúc động. Cảnh và tình hài hoà, nội tâm buồn khiến ngoại cảnh buồn, đồng thời ngoại cảnh buồn khiến nội tâm càng buồn hơn. Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật điệp cú pháp, lại thêm điệp ngữ “buồn trông” mở đầu mỗi cặp câu, sử dụng nhiều câu hỏi tu từ diễn tả rất đúng nỗi lòng Kiều lúc này: buồn và lo lắng không biết tương lai rồi sẽ ra sao
→Tám câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút của Truyện Kiều và của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay cho ta thấy thiên tài thi ca Nguyễn Du cũng như sự thấu hiểu và cảm thông cao độ mà nhà thơ dành cho nhân vật của mình.
3. Đánh giá, mở rộng, nâng cao:
- Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ hay nhất của Truyện Kiều, cho ta thấy hoàn cảnh Kiều rất đáng thương, tâm trạng nhiều nỗi buồn lo, tình cảm Kiều rất đẹp.
- Đoạn thơ đã sử dụng thể lục bát điêu luyện; ngôn ngữ và hình ảnh vô cùng chính xác, chọn lọc, gợi cảm; nghệ thuật tả cảnh, tả tình, tả cảnh ngụ tình xuất sắc, mẫu mực.
III. Kết bài:
Hai trăm năm đã qua từ khi đại thi hào viết Truyện Kiều, lịch sử dân tộc ta đã qua bao thăng trầm, đổi thay nhưng những câu Kiều vẫn làm rung cảm tâm hồn độc giả hôm nay bởi vẻ đẹp những câu thơ và tình thương người mà Nguyễn Du gửi gắm có sức mạnh vượt qua thử thách khắc nghiệt của thời gian, sẽ sống mãi cùng dân tộc ta, trở thành biểu hiện cao đẹp của tài hoa Việt Nam và tinh thần nhân đạo Việt Nam.
 
H

hthtb22

1. Mở đoạn:

- Vị trí của đoạn thơ trong truyện.

- Đoạn thơ là bức tranh tâm tình, xúc động, biểu hiện tâm trạng Thuý Kiều.

2. Thân đoạn:

*Tâm trạng cô đơn, buồn tủi trước cảnh thiên nhiên rộng lớn bên lầu Ngưng Bích.

*Nỗi nhớ của Thuý Kiều:

-Nỗi nhớ Kim Trọng, ân hận vì đã phụ thề.

-Nỗi nhớ và xót thương cho cha, mẹ lúc già yếu, sớm chiều tự cửa ngóng trông con.

*Nỗi buồn lo sợ trước những bão táp, tai biến ập đến, tấm thân sẽ không biết trôi dạt vào đâu trên dòng đời vô định. (trọng tâm)
- Cảnh được miêu tả từ xa tới gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động … để diễn tả các sắc thái tình cảm khác nhau của Kiều.(0,25đ)
- Không gian mênh mông của của biển chiều hôm(1đ)
"Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
+ Gợi nỗi buồn.
+ Con thuyền gợi nỗi cô đơn và vô định.
+ Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ quê hương, gia đình, gợi nỗi khao khát, sum họp.
- Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu"
`+ Buồn về thân phận trôi nỗi, không biết rồi sẽ phiêu dạt về đâu, bị vùi dập ra sao.
+ Lo lắng cho tương lai vô định.
- Cảnh nội cỏ nhạt nhoà, mênh mông:
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"
+ Màu cỏ gợi sự úa tàn, buồn bã.
+ Chán chường, vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc.
+ Cảm thấy tương lai mờ mịt.
- Âm thanh dữ dội kết thúc đoạn thơ
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
+ Báo trước sóng gió, bão tố của cuộc đời sắp ập xuống cuộc đời Kiều .
+ Kinh hoàng, khiếp hãi.
- Điệp ngữ "Buồn trông" lặp đi lặp lại diễn tả nỗi buồn nhiều vẻ, kéo dài, nặng nề trong lòng Kiều. Đó là sự trông đợi trong vô vọng. Đó là nỗi buồn sầu mênh mang đến vô tận.

3. Kết đoạn:

Khẳng định giá trị của đoạn thơ trong "Truyện Kiều": là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
 
H

hoan1793

Kiều ở lầu Ngưng Bích


1.Vị trí đoạn trích

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều quyết định không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự vẫn. Tú Bà sự mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả cho nàng nơi tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới tàn bạo và đê tiện hơn.

2.Hướng dẫn phân tích

a.Sáu câu thơ đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

- Hai chữ “ khoá xuân” cho thấy Kiều ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất là bị giam lỏng. Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “ Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “ non xa”, “ trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.

- Hình ảnh “ non xa”, “ trăng gần”, “ cát vàng”, “ bụi hồng” có thể là cảnh thực, mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.

- Cụm từ “ mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người, sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều thui thủi nơi quê người một thân. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “ mây sớm đèn khuya” . nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.

b.Tâm trạng thương nhớ Kim Trọng, cha mẹ của Thúy Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Nàng hình dung về tâm trạng đợi chờ của Kim Trọng. Đặt nỗi nhớ người yêu lên đầu, Thúy Kiều đã không giấu giếm nỗi nhớ nhung da diết, mãnh liệt của mình với Kim Trọng. Lời thơ ít, ý thơ nhiều, ngôn ngữ độc thoại được sử dụng tài tình , trong lời thơ như có lời thổn thức của một trái tim yêu thương nhỏ máu. Nàng hình dung, nàng tưởng tượng, nàng nhớ lời hẹn ước trăm năm, vầng trăng, chén rượu thề nguyền như vẫn còn đây mà nay mỗi người mỗi ngả.

Bên trời góc biển bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Càng nhớ người yêu, nàng càng thấm thía tình cảnh bơ vơ trơ trọi nơi chân trời góc bể của mình, càng nuối tiếc mối tình đầu trong trắng, ngây thơ, càng ý thức sau sắc chẳng bao giờ có thể “ gột rửa” được tấm lòng thuỷ chung son sắt với chàng. Về sau trong suốt mười lăm năm lưu lạc hình bóng Kim Trọng lúc nào cũng trong tâm trí nàng.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Nàng hình dung cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng xót thương và da diết không nguôi về nỗi không thể “ quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng cha mẹ ngày một già yếu. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, mà tấm lòng hiếu thảo của Kiều đã được Nguyễn Du thể hiện cao đẹp và xúc động biết bao.

Trong đoạn thơ này, Thúy Kiều đã nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau. Đó là nét bút đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Du khi thể hiện một cách khách quan tâm cảnh của Thúy Kiều. Nguyễn Du là người ngợi ca tình yêu từ khi nó vừa chớm nở, ông cũng là người chứng kiến những đổ vỡ, tan nát của mối tình ngang trái. Cho nên khi viết về tâm trạng nhớ thương của Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự của đạo lí phong kiến. Mặt khác đối với cha mẹ, Kiều đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần đến đáp, còn với người yêu, Kiều vẫn coi mình là kẻ lỗi hẹn, bạc tình. Trong tâm cảnh như thế, khi một mình một bóng, Nguyễn Du đã để nàng trước hết nghĩ đến chàng Kim. Cực kì tinh tế khi thể hiện tính biện chứng của tâm hồn nhân vật, Nguyễn Du thật xứng đáng là bút pháp đại gia.

c.Tâm trạng Thúy Kiều

Tám câu thơ cuối cuối cùng của đoạn thơ là tâm trạng Thúy Kiều trong cảnh ngộ hiện tại của nàng. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc, trong đó khung cảnh thiên nhiên luôn luôn là khung cảnh tâm trạng, biểu đạt hoạt động nội tâm nhân vật.

Cảnh vật qua con mắt của Thúy Kiều, đều gợi lên trong lòng nàng những nét buồn. Nhưng mỗi nét buồn lại được đặc trưng bằng khung cảnh khác nhau, tất cả đều được tô đậm, liên tiếp và dồn dập qua điệp ngữ “ buồn trông” được sử dụng tài ba và độc đáo ở cả bốn câu sáu:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?...

Cánh buồm thấp thoáng xa xa trong buổi chiều tà gợi lên ở nàng một nỗi buồn da diết về quê nhà xa cách. Một cánh “ hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông là nỗi buồn về phận “ hoa trôi bèo dạt ” lênh đênh vô định của nàng. “ Nội cỏ dầu dầu” giữa “ chân mây mặt đất ” một màu xanh, mù xa tít tắp là một nỗi bi thương vô vọng, kéo dài không biết đến bao giờ. Và thiên nhiên dữ dội “ gió cuốn mặt duyềnh”, “ ầm ầm tiếng sóng” thì lại gợi lên ở nàng tâm trạng hãi hùng. Lo sợ trước những tai hoạ như lúc nào cũng như rình rập ập xuống đầu nàng.

Với bút pháp tài hoa độc đáo trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học ( ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ ), Nguyễn Du đã khắc hoạ được bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Trong đó nổi bật hình tượng Thúy Kiều trong tâm trạng tràn ngập niềm chua xót về mối tình tan vỡ, da diết nỗi đau buồn vì cách biệt cha mẹ, lo sợ hãi hùng trước cơn tai biến dữ dội lúc nào cũng như sắp ập lên cuộc sống của đời nàng.:D
 
H

hoan1793

Đề: Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không sao thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”

...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
...”Buồn trông ngọn nước mới sa”
...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”

Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết cuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào
lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc đời.
 
Top Bottom