Sử 8 [sử 8] đề cương ôn tập trường tớ

T

teocauvuot

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu 1: Nguyên nhân thực dân Pháp xâm lược Việt Nam? Trình bày diễn biến chiến sự ở Đà Nẵng (1858-1859)? Tai sao Pháp chọn Đà Nẵng để mở đầu qua trình xâm lược?
Câu 2: Nêu nội dung hiệp ước Hác-măng, Giáp Tuất, Nhâm Tuất
Câu 3: Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858-1873 diễn ra như thế nào?
Câu 4: Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì.
Câu 5: Cuộc kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh Đồng Bằng Bắc Kì (1873-1874) diễn ra như thế nào?
Câu 6: Tại sao nói từ năm 1858-1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược?
Câu 7: Nêu nguyên nhân, diễn biến cuộc phản công của phái chủ chiến tại kinh thành Huế.
Câu 8: Kể tên những cuộc khỡi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương.
Câu 9: Trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-18950. Vì sao nói khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần Vương.
Câu 10: Cuộc khởi nghĩa Yên Thế trải qua mấy giai đoạn? Trình bày diễn biến chính của cuộc khởi nghĩa. Vì sao cuộc khởi nghĩa thất bại.
Các bạn làm thì cố gắng làm đầy đủ giống trong sách nha :) thank nhieu
 
Q

quynhnhung81

Hai câu còn lại :D
Câu 11: Chương trình khai thác thuộc địa lần 1 của thức dân pháp diễn ra như thêa nào? phân tích mục đích của cuộc khai thác.
Câu 12: Em hãy cho biết sự phân hoá giai cấp trong xã hội việt nam sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất?
 
T

tuananh1203

Nguyên nhân:
-Đầu thế kỳ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã phát triển với tốc độ nhanh. Để thu được nhiều lợi nhuận, các nước tư bản một mặt bóc lột nhân dân lao động trong nước, mặt khác, đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, vơ vét nguyên liệu, bóc lột đội ngũ nhân công rẻ mạt... Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, đất rộng người đông, tài nguyên phong phú, nhưng còn nằm trong vòng chế độ phong kiến suy tàn, là đối tượng nhòm ngó, xâm lược của tư bản phương Tây.
-Đến giữa thế kỷ XIX, Pháp xúc tiến ráo riết xâm lược Việt Nam vì lúc này chủ nghĩa tư bản Pháp chuyển mạnh lên Chủ nghĩa đế quốc và cuộc chạy đua giành giật thị trường trong khu vực trở nên gay gắt. Pháp tiến hành
net
 
T

tuananh1203

Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt nguồn từ những năm đầu thế kỉ XVII được cắm mốc với việc kí kết hiệp ước Vecxai (Versaiìles) năm 1787, sau đó ngày càng được xúc tiến một cách mạnh mẽ, đặc biệt từ giữa thế kỉ XIX.

Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt nguồn từ những năm đầu thế kỉ XVII được cắm mốc với việc kí kết hiệp ước Vecxai (Versaiìles) năm 1787, sau đó ngày càng được xúc tiến một cách mạnh mẽ, đặc biệt từ giữa thế kỉ XIX. Năm 1847, hai tàu chiến Pháp Gơloarơ (Gloire) và Vichtoriơ (Victorieuse) đã xâm phạm hải phận Đà Nẵng, sau đó nổ súng làm đắm 5 chiến thuyền bọc đồng của triều đình rối rút đi. Việc này đã cắt đứt mối quan hệ Việt - Pháp trong nhiều năm. Nhưng một cơ hội mới đã đến ngày 2-12-1852, Lui Bônapác (Louis Bonaparte) dựa vào sự ủng hộ của bọn đại tư sản phản động, giáo dân, và sức mạnh của lưỡi lê lên ngôi hoàng đế. Nền Đế chế thứ hai là một hình thái chuyên chế của giai cấp tư sản Pháp, bên trong ra sức đàn áp và bóc lột nhân dân, bên ngoài ráo riết đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa. Nhưng cũng phải đợi đến tháng 9-1856, mâu thuẫn Anh - Pháp tạm thời hòa hoãn, liên quân hai nước cùng nhau câu kết để uy hiếp Trung Quốc, cộng thêm các báo cáo của bọn con buôn và giáo sĩ về tình hình ngày thêm suy đốn của triều đình Huế, Napôlêông III mới dám ra mặt hành động.

Ngày 16-9-1856, tàu chiến Catina (Catinat) đến Đà Nẵng có phái viên cầm quốc thư sang Việt Nam, nhưng triều đình Huế lo ngại không chịu tiếp. Thất bại trong âm mưu điều tra tình hình Việt Nam phục vụ âm mưu xâm lược, ngày 26 9-1856, tư bản Pháp đã trắng trợn nổ súng bắn phá các đồn lũy rồi kéo lên khóa tất cả các đại bác bố trí ở trên bờ, sau đó tàu nhổ neo bỏ đi. Một tháng sau, ngày 24 tháng 10, tàu chiến Caprixiơ (Capricieuse) lại cập bến Đà Nẵng xin được gặp các quan lại triều đình để thương lượng, nhưng cũng bị cự tuyệt. Cuối cùng, ngày 23-1-1857, phái viên của Napôlêông III là Môngtinhi (Montigny) cập bến Đà Nẵng yêu cầu được tự do truyền đạo và buôn bán. Thực ra đây chỉ là một chuyến đi dọn đường sẵn cho cuộc can thiệp vũ trang khi đánh xong Trung Quốc. Cho nên, ngay trước khi Môngtinhi đến Đà Nẵng một tháng, Bộ trưởng Hải quân Pháp là Hamơlanh (Hamelin) đã tiếp viện thêm cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương, và Bộ trưởng Ngoại giao nước Pháp là Oalépxki (Walewski) cũng đã ra lệnh cho Phó Đô đốc Giơnuiy (Rigault de Genouilly), lúc đó đang chỉ huy hạm đội Pháp tham gia cuộc tấn công Trung Quốc, sau khi bắn phá và chiếm cứ xong Quảng Châu phải kéo ngay quân xuống đánh chiếm Việt Nam. Rõ ràng việc cử Môngtinhi sang triều đình Huế chỉ có giá trị ngoại giao hình thức, còn mọi mưu mô kế hoạch đều đã được bọn tư bản sắp đặt từ trước, chỉ đợi thời cơ và kiếm cớ để nổ súng. Vì thế, bản thân Môngtinhi đã có những hành động vô cùng trắng trợn. Vấp phải thái độ của triều đình Huế cương quyết cự tuyệt không tiếp, trước khi rút lui về nước, y đã đe dọa sẽ dùng vũ lực để trừng phạt nếu không đình chỉ việc cấm đạo; đồng thời y cũng cấp báo về nước yêu cầu cử binh chiếm gấp Nam Kì. Trước khi xuống tàu về nước, y còn lén lút đưa tên gián điệp đội lốt giáo sĩ Penlơranh (Pellerin) về Pháp yêu cầu Napôlêông III cử binh sang Việt Nam bênh vực những người theo đạo.

Ngày 22 - 4 - 1857, Napôlêông III quyết định cử ra Hội đồng Nam Kì để xét lại Hiệp ước Vécxai (Versailles) đã được kí kết năm 1787 giữa Bá Đa Lộc (Évêque d' Adran), đại diện cho Nguyễn Ánh và Môngmôranh (Montmorin), đại diện cho Lui XVI. Âm mưu của tư bản Pháp lúc đó là muốn dựa vào văn kiện bán nước đầu tiên của Nguyễn Ánh để "hợp pháp hóa" việc mang quân sang đánh chiếm Việt Nam. Nhưng trong thực tế thì hiệp ước đó đã bị thủ tiêu ngay sau khi kí kết, Chính phủ Pháp lúc đó không có điều kiện thi hành vì còn lo đối phó với ngọn sóng cách mạng đang dâng cao trong nước. Chúng không thể dựa vào cớ thi hành hiệp ước để đưa quân chiếm đóng Đà Nẵng, Côn Lôn, đòi độc quyền thương mại và tự do truyền đạo ở Việt Nam như các điều khoản của hiệp ước đã ghi. Mặc dù vậy, chúng vẫn quyết định cử quân sang đánh chiếm Việt Nam, lập luận một cách trắng trợn rằng việc đem quân đánh chiếm Nam Kì đã từ lâu nằm trong dự kiến của nước Pháp, đến nay thi hành chẳng qua chỉ là tiếp tục truyền thống cũ, trung thành với một "quốc sách" đã được các chính phủ tiếp tục theo đuổi qua các thời kì mà thôi. Tháng 7 - 1857, Napôlêông III quyết định vũ trang can thiệp vào Việt Nam. Tư bản Pháp đã lấy cớ trả thù việc triều đình Huế không tiếp nhận quốc thư của Pháp do tàu chiến Catina đem đến tháng 9 năm 1856, cho là "làm nhục quốc kì" Pháp. Mặt khác, chúng còn lấy cớ "bênh vực đạo", "truyền bá văn minh công giáo" để 'tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận công giáo ở Pháp và Việt Nam. Nhưng tất cả những lí do đó đều không che đậy nổi nguyên nhân sâu xa bên trong của âm mưu xâm lược. Đó là yêu cầu tìm kiếm thị trường và căn cứ ở Viễn Đông, nhất là ở miền Nam Trung Quốc, của chủ nghĩa tư bản Pháp đang chuyển mạnh lên con đường đế quốc chủ nghĩa; đó là cuộc chạy đua giành giật thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở khu vực Viễn Đông, đặc biệt với địch thủ cổ truyền là tư bản Anh.

Cuối cùng, sau khi liên quân Pháp - Anh đánh xong Quảng Châu (5 - 1 - 1858) và dùng áp lực quân sự buộc phong kiến Trung Quốc kí điều ước Thiên Tân (27 - 6 - 1858), Giơnuiy kéo ngay quân xuống hợp với quân Tây Ban Nha do đại tá Palăngca (Palanca) chỉ huy, rồi dong buồm kéo thẳng tới Đà Nẵng dàn trận từ chiều ngày 31 - 8 - 1858. Pháp và Tây Ban Nha liên minh quân sự với nhau vì trong số các giáo sĩ nước ngoài bị triều đình Huế giam giữ giết hại hồi đó có một số người Tây Ban Nha. Tư bản Tây Ban Nha cũng nhiều lần dòm ngó các vùng Đồ Sơn, Quảng Yên ngoài Bắc, nên nữ hoàng Tây Ban Nha là Idaben II (Isabelle II) sẵn sàng câu kết với Pháp trong cuộc viễn chinh này để kiếm lợi.

Nguồn:Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương I – Việt Nam đối diện với nguy cơ thực dân Pháp xâm lược, cuộc kháng chiến bắt đầu, Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.484-486.
 
S

satthuphucthu

Câu 1:
Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp cùng với các nước Tư bản phương Tây chạy đua giành giật thị thường ở khu vực Đông và Đông Nam Á, trong đó Việt Nam có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ( gần Trung Quốc, Cam-pu-chia, Lào...), giàu tài nguyên, khoáng sản ( Việt Nam lúc bấy giờ lạc hậu, không biết khai thác tài nguyên, khoáng sản) và nguồn nhân công rẻ mạt.
 
S

satthuphucthu

Câu 1(típ):
Trận Đà Nẵng (1858-1859) hay Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất là trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam. Đây là cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, khởi sự từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859, để chuyển sang một giai đoạn khác.

Và theo sự đánh giá của các nhà nghiên cứu, thì Liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã bị cầm chân và bị thiệt hại, cho nên đây chính là một khởi đầu thắng lợi lớn, nhưng duy nhất trong hơn một phần tư thế kỷ (1858 - 1884) chống ngoại xâm của quân và dân Việt Nam[1].
 
S

satthuphucthu

Câu 1(típ):
Sau hai trận thăm dò và thử sức lực lượng phòng thủ của nhà Nguyễn ở Đà Nẵng vào tháng 4 – 1847 và ngày 26 – 9 – 1856, một ủy ban có tên là Commission de la Cochinchine do Nam tước Brenien đứng đầu đã đệ trình và đã được vua Napoléon III chấp thuận chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam. Sở dĩ Pháp lại chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch tấn công xâm lược, vì một số lí do sau:
- Thứ nhất, Đà Nẵng có một vị trí chiến lược quan trọng, đây là một hải cảng sâu và rộng, tàu chiến có thể ra vào dễ dàng, mặt khác, Đà Nẵng lại nằm trên đường thiên lí Bắc – Nam, và có thể sang Lào, nếu chiếm được Đà Nẵng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp thực hiện kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” trong cuộc tấn công xâm lược Việt Nam.
- Thứ hai, Pháp không thể đánh trực tiếp vào cửa biển Thuận An ở Huế, bởi vì Huế là thủ phủ của triều đình phong kiến Nguyễn, nên ở đây sự phòng thủ chắc chắn, đặc biệt là việc phòng thủ bờ biển, mặt khác, Thuận An là một cửa biển nhỏ, tàu chiến không thể vào ra dễ dàng và thuận lợi như cửa biển Đà Nẵng…
- Thứ ba, hậu phương của Đà Nẵng có vùng đồng bằng Nam – Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi) trù phú, là cơ hội cho Pháp có thể lợi dụng để thực hiện được âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” (để nuôi quân) nhằm thực hiện kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” trong kế hoạch cuộc xâm lược Việt Nam.
- Thứ tư, Đà Nẵng là cổ họng của kinh thành Huế, chỉ cách Huế khoảng 100km, nếu khi chiếm được Đà Nẵng thì chỉ cần vượt qua đèo Hải Vân là có thể tấn công được Huế, đây chính là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất cho quân Pháp có thể thực hiện được ý đồ đánh chiếm và thu phục vương triều Nguyễn.
- Hơn nữa, tại đây (tức Đà Nẵng) có nhiều người theo đạo Thiên Chúa và nhiều giáo sĩ, gián điệp đội lốt thầy tu, con buôn… hoạt động từ trước, họ trở thành những người đi tiên phong, vạch đường cho thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược…
( Chính vì thế, mà chiều ngày 31 – 8 – 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Sáng hôm sau, sáng 1 – 9 – 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha với lực lượng khoảng 3 000 quân, được bố trí trên 14 tàu chiến, đã nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc tấn công xâm lược Việt Nam.
 
S

satthuphucthu

Nôi dung Hắc Măng:
Sử gia Trần Trọng Kim tóm tắt 27 khoản của Hòa ước Quý Mùi trong Việt Nam sử lược tựu chung có mấy điểm chính:

Triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của Pháp. Mặt ngoại giao kể cả việc giao thiệp với nước Tàu cũng phải có sự ưng thuận của Pháp.
Nam Kỳ là xứ thuộc địa từ năm 1874 nay được mở rộng gồm cả tỉnh Bình Thuận thay vì Bình Thuận thuộc Trung Kỳ.
Pháp có quyền đóng quân ở Đèo Ngang và cửa Thuận An
Trung Kỳ, tức các tỉnh từ Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang thuộc triều đình Huế. Cắt ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, và Hà Tĩnh nhập vào Bắc Kỳ.
Khâm sứ Pháp ở Huế có quyền ra vào tự do yết kiến vua
Ở Bắc Kỳ (gồm cả ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh) Pháp có quyền đặt công sứ ở các tỉnh để kiểm soát quan Việt nhưng đại để việc nội trị không bị ảnh hưởng.
Ngoài ra Hòa ước Quý Mùi còn buộc triều đình Huế triệt thoái quân khỏi Bắc Kỳ. Việc thuế má cũng sẽ do Pháp điều hành.
 
S

satthuphucthu

Nôi dung hiệp ước Giáp Tuất:
Điều 1: Sẽ có hòa bình, hữu nghị và bền vững giữa nước Pháp và Vương Quốc An Nam.
Điều 2: Tổng Thống Cộng hòa Pháp quốc thừa nhận quyền lực của vua nước An Nam và quyền độc lập hoàn toàn đối với bất kỳ một thế lực ngoại bang nào, tuyên hứa viện trợ, giúp đỡ và là chỗ nương tựa cần thiết của nhà vua nếu được yêu cầu mà không phải chịu một phí tổn nào, để duy trì nền hòa bình trên khắp các vùng đất nước, để chống trả bất cứ một sự tấn công nào và để dẹp bỏ tình trạng cướp bóc đang quấy phá một phần vùng biển của Vương quốc.
Điều 3: Để đáp lại sự bảo hộ này đức Hoàng thượng - Vua nước An Nam thỏa thuận phù hợp chính sách ngoại giao của mình với chính sách ngoại giao của nước Pháp và không có gì thay đổi với những mối liên hệ ngoại giao hiện có của đức vua. Sự giao ước chính trị này không áp dụng vào bản Thương ước. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, đức Hoàng thượng vua nước An Nam có thể ký kết Thương ước với bất cứ một nước nào khác không phù hợp với Thương ước đã được ký kết giữa nước Pháp và Vương Quốc An Nam, mà không báo trước với Chính Phủ của nước Pháp.
Điều 4: Tổng Thống Cộng Hòa Pháp quốc cam kết tặng hoàng thượng Vua nước An Nam:
Năm chiếc tàu chạy máy hơi nước tổng cộng là 500 mã lực, trong tình trạng toàn hảo về mặt máy móc và bồn đun nước sôi, cùng với súng ống đạn dược và đồ phụ tùng đúng như chế độ quân sự quy định;
Một trăm khẩu trọng pháo loại 70 ly và và 160 ly, với 200 viên đạn cho mỗi khẩu súng, một ngàn khẩu súng và 500 ngàn viên đạn. Tàu và súng ống đạn dược sẽ được chở tới Nam Kỳ và chuyển giao trong thời hạn tối đa là 1 năm kể từ ngày trao đổi hòa ước đã được hai phía chuẩn phê;
Ngài Tổng thống Cộng Hòa Pháp Quốc cũng cam kết rằng: Đặt dưới quyền sử dụng của đức Vua
Những huấn luyện viên quân sự và hải quân đủ số cần thiết để tái lập quân đội và hạm đội của hoàng thượng;
Những kỹ sư và trưởng xưởng để điều hành những công trình do đức Hoàng thượng đề xướng;
Những chuyên viên tài chánh để tổ chức các cơ cấu thuế khóa và hải quan trong Vương quốc;
Những giáo sư để thành lập một trường đại học ở Huế. Ngài tổng thống cũng cam kết cung ứng cho đức Vua những tàu chiến, súng óng đạn dược cần thiết.
Tiền lương trả công cho các dịch vụ như vậy sẽ được ấn định bởi sự thỏa thuận của hai phái đoàn cao cấp ký giao ước.
Điều 5: Đức Hoàng thượng Vua nước An Nam công nhận chủ quyền toàn vẹn của nước Pháp trên các vùng lãnh thổ do nớc Pháp hiện đang chiếm giữ và bao gồm trong trong các ranh giới như sau:
Về phía Đông; vùng biển Trung Quốc và Vương Quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Về phía Tây; vịnh Xiêm La; Về phía Nam; vùng biển Trung Quốc; Về phía Bắc; Vương quốc Cam Bốt và Vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Mười một ngôi mộ của họ Phạm ở trong lãnh vực làng Tân Niên Đông và Tân Quan Đông (tỉnh Sài Gòn) và ba ngôi mộ của họ Hồ ở trong lãnh vực làng Linh Chung Tây và Tân Mai (tỉnh Biên Hòa), không được bóc mộ, đào xới, xâm phạm hay đập phá. Sẽ cấp một lô đất rộng 100 mẫu cho các ngôi mô nhà họ Phạm và một lô tương đương như thế cho nhà họ Hồ. Hoa lợi thu được trên các lô đất nầy được dùng để gìn giữ và bảo toàn các ngôi mộ và chu cấp các gia đình lo việc trông nôm các phần mộ. Các lô đất được miễn các thứ thuế và những người trong dòng họ Phạm, Hồ cũng sẽ được miễn thuế thân, khỏi thi hành quân dịch hay đi dân công.
Điều 6: Nước Pháp miễn cho đức Vua không phải trả những phần tiền chiến phí cũ còn thiếu.
Điều 7: Đức Hoàng thượng cam kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển giao của chính phủ Pháp, trả nợ số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là một triệu đồng đô la - hối xuất 0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số thu nhập các thuế quan đánh trên bất cứ mặt hàng hóa nào trên các bến cảng được mở ra cho Đức Hoàng thượng cam kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển giao của chính phủ Pháp, trả nợ số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là một triệu đồng đô la - hối xuất 0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số thu nhập các thuế quan đánh trên bấu mặt hàng hóa nào trên các bến cảng được mở ra cho những người Âu, Mỹ. Số tiền thâu được mỗi năm nộp vào Kho bạc ở Sài Gòn để trả cho chính phủ Tây Ban Nha, lập biên nhận gởi cho chính phủ An Nam.
Điều 8: Tổng thống Cộng Hòa Pháp và Hoàng thượng đức Vua ban bố đại xá trọn vẹn và giải trừ tất cả mọi sai áp cầm giữ trên các tài sản của những công dân nước mình từ trước cho đến khi hai bên ký kết hòa ước vì họ có dính líu hợp tác với phía bên nầy hay phía bên kia.
Điều 9: Nhận biết rằng đạo Gia tô truyền dạy con người theo đàng lành, Hoàng thượng đức Vua từ bỏ và chống lại mọi sự ngăm cấm nhằm mục đích chống đạo này và cho phép thần dân của Hoàng thượng theo đạo và truyền đạo một cách tự do.
Vì vậy, những tín đồ Gia tô giáo của Vương quốc An Nam sẽ có thể tụ hội tại các nhà thờ với một số lượng có giới hạn để hành lễ đọc kinh. Các tín đồ sẽ không bị ép buộc dưới bất cứ một lý do nào để phải thi hành những điều trái với đạo giáo của họ, hoặc là phải chịu một sự kiểm trau đặc biệt nào. Họ sẽ được tham dự các kỳ thi tuyển và làm việc nơi các công sở mà không vì thế phải thi hành bất cứ một điêu gì mà đạo cấm đoán.
Hoàng thượng thỏa thuận bãi bỏ việc đăng ký tình trạng phân bổ số tín hữu Gia tô đã được thi hành từ 15 năm trước đây và sẽ được đối xử giống như những thần dân khác trong vấn đề kiểm kê dân số và thuế má. Hoàng thượng cũng thỏa thuận xét lại vấn đề quốc phòng một cách khôn khéo trong cách dùng văn tự hay ngôn ngữ, những lời lẽ va chạm tôn giáo và sửa đổi các điều khoản nào trong bản Thập Điều có dùng những lời lẽ va chạm như thế.
Những giáo sĩ giám mục và các người thừ sai có thể nhập cảnh tự do vào Vương quốc và lui tới các địa phận truyền giáo của ho với một giấy thông hành do thống đốc Nam Kỳ Hạ ban cấp được chiếu khán bởi thượng thơ bộ Lễ hay của tổng đốc tỉnh thành. Họ có thể thuyết giảng mọi nơi các giáo điều của đạo Gia tô. Họ không phải bị đặt dưới một sự giám sát đặc biệt nào và các làng mạc cũng không còn phải bắt buộc báo trình lên chức quan của triều đình về việc tới lui và sự hiện diện của họ.
Các hàng giáo sĩ người An Nam sẽ được hành đạo một cách tự do giống như những người thừa sai bề trên của họ. Nếu hạnh kiểm của họ đáng quở trách và nếu theo luật pháp hiện hành mà tội phạm của họ được xếp vào hàng khinh tội bị phạt bằng trượng hay bằn roi thì hình phạt trượng hayroi sẽ được cải giảm bằng một hình phạt tương đương.
Các hàng giáo sĩ giám mục, các người của hội thừ sai, các linh mục người An Nam sẽ được quyền mua, thuê đất cát và nhà cửa, xây cất nhà thờ, bệnh xá, trường học, nhà mồ côi và tất cả những tiện nghi khác để dùng trong việc phụng vụ tôn giáo của họ.
Tài sản do họ tạo dựng để phụng vụ tôn giáo hiện đang bị sái áp sẽ được trao trả lại cho họ.
Tất cả những điều kê khai ở trên nếu không có ngoại lệ thì cũng áp dụng cho những người thuộc hội thừ sai Tây Ban Nha.
Sau khi hòa ước được hai bên chuẩn phê, đức vua sẽ ban một dụ chỉ truyền rao kắp công chúng rằng quyền tự do đã được hoàng thượng ban cho các tín đồ Gia tô của Vương quốc.
Điều 10: Triều đình An Nam có thể mở một trường cao đẳng ở Sài Gòn đặt dưới quyền giám thị của giám đốc Nha Nội Vụ và chương trình dạy học ở trường ấy không có điều gì đi ngược với đạo lý và sự thi hành quyền lực của người Pháp được mang ra giảng dạy. Tự do tín ngưỡng được áp dụng nơi trường học đó.
Trong trường hợp có sự vi phạm, người thầy dạy học vi phạm những điều quy định sẽ bị tống khứ về nơi xứ sớ của đương sự và hơn nữa nếu trường hợp trầm trọng, trường cao đẳng có thể bị đóng cửa.
(còn nữa)
 
S

satthuphucthu

Nội dung Nhâm Tuất:
Hòa ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản có tính cách ngoại giao, thì 8 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:

Khoản 1: Từ nay về sau, hòa bình sẽ mãi mãi được thiết lập giữa một bên là Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha và một bên là Vua An Nam. Tình hữu nghị toàn diện và lâu bền cũng sẽ được thiết lập giữa thần dân ba nước dù họ ở bất cứ nơi đâu.
Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn theo đạo Gia Tô, đều sẽ được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tô thì không được ép họ theo.
Khoản 3: Chủ quyền trọn ba tỉnh là Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, cũng như đảo Côn Lôn, do hiệp ước này, được hoàn toàn nhượng cho hoàng đế nước Pháp. Ngoài ra, các thương gia Pháp được tự do buôn bán và đi lại bằng bất cứ tàu bè nào trên sông lớn của xứ Cam Bốt và trên tất cả các chi lưu của con sông này[7]; các tàu binh Pháp được phép đi xem xét trên con sông này hay trên các chi lưu của nó cũng được tự do như vậy.
Khoản 4: Sau khi đã nghị hòa, nếu có nước ngoài nào muốn, bằng cách gây sự hoặc bằng một hiệp ước giành lấy một phần lãnh thổ của nước Đại Nam, thì hoàng đế nước Đại Nam sẽ báo cho hoàng đế nước Pháp biết bằng một sứ thần,.. để hoàng đế nước Pháp được hoàn toàn tự do đến tiếp cứu nước Đại Nam hay không. Nhưng, nếu trong hiệp ước với nước ngoài nói trên, có vấn đề nhượng địa, thì sự nhượng địa này có thể được thừa nhận nếu có sự ưng thuận của hoàng đế nước Pháp.
Khoản 5: Người các nước Pháp và Tây Ban Nha được tự do buôn bán tại ba hải cảng là Tourane (Đà Nẵng), Ba La (Ba Lạt)[8] và Quảng An[9]. Người nước Đại Nam cũng được tự do buôn bán tại các hải cảng của nước Pháp và Tây Ban Nha như vậy, nhưng phải theo thể thức luật định...
Khoản 8: Hoàng đế nước Đại Nam sẽ phải bồi thường một số tiền là bốn triệu piastre, trả trong 10 năm. Vì nước Đại Nam không có tiền piastre sẽ được tính bằng 72% lạng bạc.
Khoản 9: Nếu có cướp bóc, giặc biển hoặc kẻ gây rối người nước Nam nào, phạm tội cướp bóc hoặc gây rối trên các đất thuộc Pháp, hoặc nếu có người Âu Châu phạm tội nào đó, lẩn trốn trên đất thuộc nước Nam thì ngay khi nhà nước Pháp thông tri cho nhà chức trách Đại Nam, giới chức này phải cố gắng bắt giữ thủ phạm để giao nộp cho nhà chức trách Pháp. Vấn đề cướp bóc, giặc biển hay quân phiến động nước Nam sau khi phạm tội, lẩn trốn trên đất thuộc Pháp, cũng sẽ được xử như vậy.
Khoản 10: Dân chúng ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên sẽ được tự do buôn bán trong ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành, nhưng những đoàn tàu chở binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thực giữa ba tỉnh nói trên và Nam Kỳ chỉ được thực hiện bằng đường biển. Tuy nhiên, hoàng đế nước Pháp thuận cho các đoàn tàu chở các thứ trên vào Cam Bốt được có cửa khẩu là lạch Mỹ Tho (Định Tường), gọi là Cửa Tiền, song với điều kiện là các giới chức Đại Nam phải báo trước cho đại diện của hoàng đế nước Pháp, vị đại diện này sẽ trao cho họ một giấy thông hành. Nếu thể thức này không được tuân theo, và một đoàn vận tải như vậy nhập nội mà không có giấy phép thì đoàn đó và những gì hợp thành đoàn đó sẽ bị bắt giữ và các đồ vật sẽ bị phá hủy.
Khoản 11: Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế nước Đại Nam ngay khi Ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh Ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên
 
S

satthuphucthu

Câu 3:
Ngày 31-8-1858 Pháp kéo đến Đà Nẵng ,với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh ,buộc Huế phải đầu hàng .- 1-9-1858 : Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân dân anh dũng chiến đấu chống giặc .- Pháp chiến bán đảo Sơn Trà , nhân dân bỏ đi hết “Vườn không nhà trống”.


 
S

satthuphucthu

Câu 5:
1. Thực Dân Pháp Đánh Chiếm Bắc Kỳ Lần Thứ Nhất ( 1873- 1874)
a. Tình Hình Việt Nam Trước Khi Thực Dân Pháp Đánh Chiếm Bắc Kì Lần Thứ Nhất.
Chiếm xong 6 tỉnh Nam Kì, thực dân pháp gấp rút biến Nam kì thành bàn đạp vững chắc để tiến đánh Bắc Kì và Trung Kì. Một mặt, chúng ra sức củng cố bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, mở trường đại học đào tạo tay sai, mặt khác chúng tăng cường bóc lột nhân dân ta để thực hiện phương châm “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Trong khi đó, triều đình Huế dường như không còn nghĩ gì đến việc chiến đấu giành lại các vùng đất đã mất mà vẫn tiếp tục thi hành những chính sách nội trị, ngoại trị thiển cận.
b. Cuộc Kháng Chiến Ở Hà Nội và Các Tỉnh Đồng Bằng Bắc Kì.
Khởi hành từ Sài Gòn ngày 11-10-1873, đội tàu chiến của Gácniê ra tới Hà Nội ngày mùng 5-11. Nhiệm vụ của bọn thực dân pháp hiếu chiến Nam Kì giao lại cho Gácniê khi kéo quân ra Bắc là được toàn quyền hành động và tùy theo diễn biến tình hình mà thiết lập chế độ bảo hộ hay chế độ thuộc địa.
Ngay khi đặt chân tới Hà Nội, Gácniê đã lộ rõ bộ mặt khiêu khích: Đòi vào đóng trong thành, đòi tổ chức thu thuế…
Triều đình Huế bị động, Trần Đình Túc được cử ra Bắc với nhiệm vụ chính là bố cáo cấm nhân dân buôn bán giao thiệp với người pháp. Vạch rõ trách nhiệm của Gácniê chỉ ra Bắc để dàn xếp việc Đuy-Puy và khai thương Bắc Kì. Nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh làm cho quân pháp gần như bị cô lập, chúng rơi vào thế khó khăn.
Sau khi được viện binh từ Sài Gòn và Hương Cảng, y lại có những hành động khiêu khích. Hắn gửi tối hậu thư buộc Nguyễn Tri Phương giải giáp quân đội, rút hết súng trong thành…20/11/1873 Gácniê tấn công thành Hà Nội.
Ngay khi giặc nổ súng, nhân dân Hà Nội cùng Nguyễn Tri Phương và phò mã Lâm đã chiến đấu bảo vệ Hà Nội.
Chỉ trong 1 thời gian ngắn, pháp đã hạ được thành, nhiều tướng bị bắt, Nguyễn Tri Phương bị chết.
Do tình hình cấp bách, triều Nguyễn cũng điều quân cử ra Bắc tiến hành một số công tác phòng thủ các nơi. Xu hướng chủ yếu vẫn là thương thuyết, hết viết thư hay cử người vào Sài Gòn yêu cầu đô đốc Puype gọi Gácniê về. Lại phái người ra Hà Nội yêu cầu trả thành và kho tàng.
Sau đó, pháp tiếp tục cho quân tấn công Hải Dương, Ninh Bình và tiếp đó là Nam Định. Như vậy, chỉ trong vòng gần 1 tháng, do sức kháng chiến yếu ớt của quan quân triều Nguyễn, nhiều tỉnh thành lớn nhỏ miền đồng bằng Bắc Kì đã bị Pháp đóng, nhưng đi đến đâu chúng cũng vấp phải sức chiến đấu quyết liệt của nhân dân địa phương.
Nhận được tin mất 4 tỉnh, vua Tự Đức vô cùng lo lắng đã xử tội những quan làm mất thành, không làm tròn chức trách, điều động quân đi các nơi để phòng giữ…. Rồi Tự Đức bí mật sai Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết lấy 1000 quân đến phủ Từ Sơn (Bắc Ninh) để cùng Võ Huy Thục, Trương Quang Đàn chống giữ.
Hoàng Tá Viêm cùng Lưu Vĩnh Phúc đem quân về Sơn Tây củng cố lực lượng để khi có thời cơ tấn công Pháp.
Ở Hà Nội, thấy lực lượng của giặc yếu và mỏng, quân ta xiết chặt vòng vây, buộc Gácniê phải tức tốc đưa quân về Hà Nội ứng cứu. Ngày 21-12-1873 quân pháp định tiến ra Hoài Đức (Sơn Tây) nhưng đến Cầu Giấy thì bị phục binh đổ ra giết chết tại trận.
Chiến thắng Cầu Giấy làm quân Pháp ở Hà nội và các tỉnh hoảng sợ bỏ chạy. Thực dân pháp ở Nam Kì rất hoang mang. Đây là thời cơ thuận lợi để đánh đuổi giặc, nhưng triều đình Huế đã bỏ lỡ. Các đội quân triều đình rút lên Sơn Tây để tạo không khí “thuận lợi” cho đàm phán. Tiếp đó, một bản hiệp ước mới đã được kí tại Sài Gòn vào ngày 15-3-1873 (Giáp Tuất).
Hiệp ước này đã làm mất 1 phần quan trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam, xác lập đặc quyền về kinh tế của tư bản Pháp trên khắp nước ta. Hiệp ước Giáp Tuất gây nên sự phản ứng dữ dội trong dân chúng cũng như các quan chức yêu nước. Phong trào nhân dân đã có thực tiễn để đi tới một nhận thức mới mẻ: chống Pháp phải đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Đây chính là cơ sở nhận thức cho cuộc khởi nghĩa lớn bật nhất giai đoạn này là khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn và Đặng Như Mai ở Nghệ - Tĩnh. Sau này, phong trào lan ra Thanh Hóa, vào tới Quảng Bình. Mặc dù quân Pháp chưa tới được Nghệ An, nhưng phong trào ở đây đã đề ra khẩu hiệu Bình Tây sát Tả và lời hịch cứu nước có giá trị tư tưởng lớn.
“Dập dìu trống đánh cờ siêu
Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây…”
2. Thực Dân Pháp Đánh Chiếm Bắc Kì Lần Thứ Hai (1882 - 1883)
a. Nguyên Nhân:
Cuối thế kỉ XIX, Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cần đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Bắc kì giàu tài nguyên, nội lực suy yếu.
b. Pháp Đánh Chiếm Bắc Kì Lần Hai:
Ngày 3- 4- 1882, lấy cớ nhà Nguyễn vi phạm hiệp ước Giáp Tuất, Rivie kéo quân ra Bắc. Ngày 25- 4- 1882 Pháp đánh chiếm Hà Nội, quân triều đình tan vỡ.
Từ ngày 12- 3- 1883, quân Pháp chiếm Hồng Gai. 27- 3 chúng chiếm được thành Nam Định. Pháp mở rộng đánh chiếm, hầu hết các tỉnh Bắc kì dều rơi vào tay giặc.
c. Nhân Dân Bắc Kì Chống Pháp Chiếm Đóng Lần Thứ Hai
Khi quân Pháp nổ súng tấn công, nhân dân Bắc Kỳ đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Nhân dân phối hợp, cổ vũ quân ta chống Pháp. Giặc đi đến đâu cũng vấp phải sức chiến đấu quyết liệt của quân dân các địa phương: Nam Định, Sơn Tây, Bắc Ninh…Tháng 5- 1883, trên chiến trường Cầu Giấy, quân dân ta lại một lần nữa giáng cho giặc một đòn nặng nề. Ngày 19- 5- 1883, Rivie huy động 550 quân có đại bác yểm trợ, mở cuộc hành quân đánh ra ngoài Hà Nội theo hướng Sơn Tây. Nắm được ý đồ đó, quân dân ta cùng đội quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc tổ chức phục kích tại Cầu Giấy. Ta giành thắng lợi lớn tại Cầu Giấy, nhiều sĩ quan binh lính địch bị chết và bị thương, Rivie cũng phải bỏ mạng.
Chiến thắng quan trọng này làm phấn chấn lòng người kháng chiến. Bồi đắp thêm ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân.
d. Quân Pháp Tấn Công Cửa Biển Thuận An.
Ngày 19- 7- 1883 vua Tự Đức qua đời, triều đình bận rộn chọn người kế vị. Ngày18 đến 20- 8- 1883, Pháp chiếm cửa biển Thuận An, bao vây kinh thành Huế→ nhà Nguyễn hoảng sợ xin đình chiến.
Ngày 25- 8- 1883 Nhà Nguyễn buộc phải kí bản hiệp ước Hácmăng: Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của Pháp.
Đầu năm 1884, chiến sự ở Bắc Kỳ diễn ra ngày càng ác liệt. 11- 5- 1884 với hiệp ước Thiên Tân được ki kết, quân Thanh đã rút khỏi Bắc Kỳ.
Trên đà thắng thế, 6- 6- 1884, chính phủ Pháp đã buột triều đình Huế phải kí thêm hiệp ước Patơnốt gồm 19 điều khoản, căn bản giống với hiệp ước Hácmăng nhưng trả lại 4 tỉnh Bình Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh cho triều đình Huế cai quản nhằm để mua chuộc, lung lạc quan lại triều Nguyễn và xoa dịu sự công phẫn của nhân dân ta.
 
S

satthuphucthu

Câu 7:
a. Nguyên nhân
- Sau 2 hiệp ước 1883 và 1884,
phe chủ chiến trong triều đình nuôi hi vọng giành lại chủ quyền từ tay Pháp
- Pháp lo sợ, tìm cách bắt cóc những người cầm đầu
b. Diễn biến
- Đêm ngày 4, rạng ngày 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và Tòa Khâm sứ.
- Nhờ ưu thế về vũ khí, quân giặc phản công chiếm lại kinh thành Huế.
 
S

satthuphucthu

Câu 8:
các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi gồm có:
Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa.
Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886-1892) của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương, Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên
Phong trào kháng chiến ở Thái Bình-Nam Định của Tạ Quang Hiện và Phạm Huy Quang,
Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.
Khởi nghĩa Sông Đà (1885-1892) của Đốc Ngữ (Nguyễn Đức Ngữ) ở Hòa Bình.
 
S

satthuphucthu

Câu 9:
Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương là vì:
- thời gian tồn tại lâu hơn các cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào Cần Vương 1885-1896.
- địa bàn hoạt động; rộng lớn hơn nó trãi dài từ Thanh hóa xuống tận Quãng Bình.
- được đông đảo các tần lớp tham gia: công nhân nông dân các lực lượng phong kiến các văn nhân sĩ phu yêu nước.
- có trình độ tổ chức cao trong phong trào và chiền đấu bền bỉ.
*cuộc khởi nghĩa Hương Khê:
- địa bàn thuộc huyện Hương Khê Hương Sơn (Hà Tĩnh) sau đó lan rộng ra nhiề tỉnh khác do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.
- từ năm 1885-1889, nghĩa quân xây dựng lực lượng.
- từ 1889-1895 ta đẩy lùi nhiều cuộc càng quét của địch. sau khi Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khoo7i3 nghĩa tồn tại một thời gian rối tan rã
-sau khởi nghĩa Hương Khê phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến nhưng thất bại phong trào chuyển sang giai đoạn mới .
 
S

satthuphucthu

Câu 10:
Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, theo nhiều học giả, có thể do các nguyên nhân:

Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hòa) không hợp với nhiều nghĩa quân (chủ chiến).

Nhiều nghĩa quân đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây nên sự rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân.

Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi khi nghĩa quân vẫn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng.

Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.

Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó.
 
Top Bottom