Soạn văn

M

me0kh0ang2000

Văn bản : Hịch tướng sĩ
1.Bài hịch gồm 4 phần:
. Mở đầu nêu vấn đề.
. Nêu truyền thống vẻ vang->gây lòng tin tưởng
. Nếu nhận định tình hình -> gây lòng căm thù giặc – phân tích phải trái
. Đề ra chủ trương và kêu gọi chiến đấu.

2.Thái độ tố cáo bộc lộ rõ qua cách gọi khinh miệt, coi chúng như những loài câm thú như : dê chó , hổ đói , liệt kê hàng loạt những biểu hiện ngông nghênh , hống hách hàng loạt của bọn giặc.
Bọn giặc tỏ thái độ khinh mạn và nghênh ngang đi ngoài đường , ngạo ngược sỉ mắng triều đình làm tác giả đau xót vì thể thống quốc gia bị chà đạp.Chúng hống hách bắt nạt tể phụ , làm tác giả cảm thấy tủihổ vì những người đại diện cho triều đình Việt Nam bị lăng nhục
Giặc còn tham lam vô độ: đòi ngọc lụa , thu bọc vàng.Nghệ thuật so sánh và ẩn dụ thật sinh động và sâu sắc.Ta có nôp bao nhiêu ngọc lụa , vàng bạc đến cạn kho cũng không thể nào thỏa mãn đựơc sự tham lam của bọn giặc cũng giống như đem thịt nuôi hổ đói rồi về sau hổ cũng vồ ta , ngụ ý nói nước ta cũng sẽ bị giặc cướp.

3.Tác giả căm thù giặc sâu sắc qua việc thổ lộ sự đau đớn, uất hận của mình bằng một số thủ pháp nghệ thuật:
- Nên được những sự việc tiêu biểu diễn tả nổi lo lo lắng khổ tâm : tới bữa quên ăn , nửa đểm vỗ gối
- Khắc họa cụ thể nội dung đau đớn , xót xa : ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa.
- Biểu hiện sự căm hờn bằng biện pháp ngoa dụ : xả thịt lột da,quyết tâm hy sinh, trăm thân phơi ngoài nội cỏ…
Câu văn chính luận đã khắc họa thật sinh động hình tựơng người anh hung yêu nước:đau xót đến quặn lòng trong tình cảnh đất nước , căm thù giặc đến bầm gan tím ruột , mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn , vì nghĩa lớn mà xem thường xương tan.Chính Trần Quốc Tuấn là một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ.

4.Mối ân tình của Trần Quốc Tuấn với các tướng sĩ dựa trên 2 quan hệ : quan hệ chủ tướng và quan hệ cùng cảnh ngộ.Quan hệ chủ tướng nhầm để khcíh lệ tinh thần của trung quân ái quốc còn quan hệ cùng cảnh ngộ nhằm khích lệ lòng ân nghĩa thủy chung của những người chung hoàn cảnh lúc trận mạc xông pha , lúc vui cừơi.Nêu lên mối ân tình của Trần Quốc Tuấn với tướng sĩ , tình thần trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người.

5.Đặc sắc nghệ thuật:
-Thể văn biền ngẫu , cân đối nhịp nhàng.
-Kết hợp nhuần nhuyễn 2 yếu tố : chính luận & trữ tình
-Giọng điệu chân tình , tràn đầy cảm xúc:
.Trân tình bộc bạch tâm sự
. Sục sôi căm hờn.
. Đau đớn uất hận.
Lập luận giàu sức thuyết phục .Ta chỉ thấy sự vui chơi của các tướng sĩ đối chọi với sức mạnh của quân địch tất yếu sẽ bại vong. Nhưng tác giả phê phán việc tướng sĩ say mê không phải lúc., chứ không cấm họ luôn luôn không được chơi.

6/Sơ đồ cách triển khai lập luận trong bài:
+Khích lệ lòng căm thù ,
Nỗi nhục mất nước
+Khích lệ lòng trung quân ái quốc, thủy chung của các tướng sĩ. Khích lệ lòng yêu nước bất khuất
+Khích lệ ý chí lập công danh, quyết chiến thắng quân giặc
Xả thân vì nước
+Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ
Nhận biết cái sai, thấy rõ cái đúng
 
0

0872

Hịch Tướng sĩ
(Trần Quốc Tuấn)
I.Tìm hiểu tác giả, tác phẩm:
1. Tác giả:
- Trần Quốc Tuấn (1231 ? - 1300), tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất thời Trần.
Là người có phẩm chất cao đẹp, văn võ song toàn và có công lao lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên.
Được nhân dân tôn là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Văn bản:
Tượng đài
Trần Hưng Đạo tại núi Yên Phụ
(Kinh Môn, Hải Dương)
Tượng đài Trần Hưng Đạo tại TP Vũng Tàu
Tượng đài Trần Hưng Đạo tại Nam Định
Đền thờ Đức Thánh Trần ngày lễ hội tháng Tám âm lịch hàng năm tại xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương)
Đền thờ Trần Quốc Tuấn
tại Yên Hưng, Hà Nam
Dựng lại Hội nghị Bình Than tại bến Lục Đầu tại Chí Linh (Hải Dương)
3. Đọc, hiểu chú thích:
2. Tác phẩm
-Hịch tướng sĩ có tên chữ Hán là "Dụ chư tì tướng hịch văn". Ra đời trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai
a/ Đọc:
b/ Giải thích từ khó: ( SGK-59-60 )
II.Phân tích văn bản:
Là thể văn nghị luận thời xưa, được vua chúa, tướng lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục, hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài .Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục. Thường được viết theo thể văn biền ngẫu.
So sánh thể Chiếu và Hịch
-Phương thức biểu đạt:
1.Kết cấu, bố cục:
-Thể loại:
Hịch.
- Thuộc thể văn nghị luận, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, có thể viết bằng văn xuôi, văn vần.
- Đều dùng để ban bố công khai do vua, tướng lĩnh biên soạn.
-Hịch dùng để cổ vũ, thuyết phục, kêu gọi, động viên khích lệ tinh thần quân sĩ chống kẻ thù cũng có khi khuyên nhủ, răn dạy thần dân và người dưới quyền.
Giống
Khác
-Chiếu dùng để ban bố mệnh lệnh.
Nghị luận.
Phần 4: Phần còn lại
? Nhiệm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu.
- Bố cục bài "Hịch tướng sĩ": Gồm 4 phần

Phần 1: Từ đầu ... "còn lưu tiếng tốt" ? Nêu gương trung thần nghĩa sĩ.
Phần 2: Từ "Huống chi"... "cũng vui lòng":
? Lột tả sự ngang ngược, độc ác của kẻ thù và nói lên lòng căm thù giặc.
Phần 3: Từ "Các ngươi" ... "phỏng có được không?":
? Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai.
2. Phân tích:
- Có người làm tướng: Kỉ Tín, Do Vu, Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang, Xích Tu Tư.
Nêu gương trung thần nghiã sĩ:
-Có người làm gia thần: Dự Nhượng, Kính Đức.
-Có người làm quan nhỏ: Thân Khoái.
-Dùng dẫn chứng, phép liệt kê, nêu tên và việc làm cụ thể.
-Như một luận cứ làm cơ sở cho lập luận
- Sẵn sàng chết vì vua, vì chủ, vì nước, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
- Nhằm khích lệ lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ.
I-Tìm hiểu tác giả, tác phẩm:
II-Phân tích văn bản:
1. Kết cấu, bố cục:
2.Phân tích:
a)Nêu gương trung thần nghĩa sĩ:
Việc nêu gương trung thần nghĩa sĩ sẵn sàng xả thân vì vua, vì chủ, vì nước, không sợ hiểm nguy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhằm khích lệ lòng trung quân ái quốc của các chiến sĩ.
Tội ác của giặc:
+ đi lại nghêng ngang.
+ uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình.
+ đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ.
+ đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, vét của kho.
Giọng mỉa mai châm biếm, nhịp dồn dập liên tiếp, căm phẫn dồn nén.
b. Tội ác của giặc và nỗi lòng của tác giả:
->Động từ gợi tả.
->Từ tượng hình, gợi tả.
->Hình ảnh ẩn dụ, vật hoá-hình tượng trong thế tương quan.
Lột tả kẻ thù ngang ngược, độc ác, tham lam, tàn bạo.

II-Phân tích văn bản:
1. Kết cấu, bố cục:
2.Phân tích:
a) Nêu gương trung thần nghĩa sĩ:
b) Tội ác của giặc và nỗi lòng của tác giả:
*Tội ác của giặc:
Bằng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, hình ảnh ẩn dụ, vật hoá hình tượng, tác giả đã lột tả bộ mặt ngang ngược, độc ác, tham lam tàn bạo của kẻ thù.
" Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng."
*Nỗi lòng của tác giả:
+ Tột cùng lo lắng: mất ăn, mất ngủ.
+ Tột cùng đau xót: như cắt ruột, nước mắt đầm đìa.
+ Tột cùng căm uất: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
+ Tột cùng hy sinh: trăm thân... vui lòng.
-Động từ mạnh liên tiếp + danh từ.
-So sánh, liệt kê hành động trạng thái.
-Hình ảnh khoa trương.
Trực tiếp bộc lộ cảm xúc.
Trạng thái tâm lí con người được đẩy lên mức tối đa, đến tột cùng, căm uất, sôi sục, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, ý chí xả thân cứu nước.
Bày tỏ tấm lòng lo lắng, đau xót cho đất nước, căm tức kẻ thù, sẵn sàng hi sinh vì đất nước.
 
N

nhoclovely1021

1. Bài hịch bố cục thành 4 đoạn:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "đến nay còn lưu tiếng tốt."): tác giả nêu ra các gương "trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước" đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.
- Đoạn 2 (từ "Huống chi ta" đến "ta cũng vui lòng."): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.
- Đoạn 3 (từ "Các ngươi ở cùng ta" đến "không muốn vui vẻ phỏng có được không ?"): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ (từ "Các ngươi" đến "muốn vui vẻ phỏng có được không ?") và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai (từ "Nay ta bảo thật" đến "không muốn vui vẻ phỏng có được không ?").
- Đoạn 4 (từ "Nay ta chọn binh pháp" đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.
2. Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc:
"Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !"
- Bộ mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tế : đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn...
- Để lột tả sự ngang ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ:
+ Hình ảnh chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,…
+ Các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều - sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó - bắt nạt tể phụ.
- Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.
3. Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng."
- Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
- Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
- Qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì đất nước được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.
4. Sau khi nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.
Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.
5. Trong bài hịch, giọng văn lúc thì là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền lúc lại là của người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ khi đất nước lâm nguy thì đều cùng một cảnh ngộ):
- Khi muốn bày tỏ ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ để nói: "Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (...) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười." , "Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên..."
- Khi nghiêm khắc của trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh đất nước, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng: "không biết lo", "không biết thẹn", "không biết tức", "không biết căm"... Thực ra, gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực...đều là những người trung nghĩa. Trung nghĩa là nét nổi bật của tinh thần Đông A (tức nhà Trần). Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù."(Trần Đình Sử)
- Dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù.
6. Một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài hịch tướng sĩ.
- Thủ pháp so sánh - tương phản: đoạn 2,3
- Thủ pháp trùng điệp - tăng tiến; được sử dụng kết hợp với thủ pháp so sánh - tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc (đoạn 3).
7*. Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đặc sắc, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người.
Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.
Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua lược đồ kết cấu sau:
Khích lệ lòng căn thù giặc và nỗi nhục của kẻ mất nước.
Khích lệ lòng trung quân ái quốc, lòng ân nghĩa thuỷ chung của những người cùng cảnh ngộ.
Khích lệ ý chí lập công và tinh thần xả thân vì nước của tướng sĩ.
Khích lệ lòng tự trọng và danh dự cá nhân của mỗi người trước vận mệnh quốc gia.
 
Top Bottom