soan bai "chị em Thuý Kiều"

V

vitconxauxi_vodoi

Câu 6:
Trong hai bức chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân,rõ ràng bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn,vì:
-Nguyễn Du chỉ dành 4 câu thơ để gợi tả Thúy Vân trong khi đó dành tới 12 câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
-Vẻ đẹp của Thúy Vân chủ yếu là ngoại hình còn vẻ đẹp của Thúy Kiều là cả nhăn sắc,tài năng,tâm hồn,
-Tác giả tả Thúy Vân trước để làm nổi bật lên chân dung Thúy Kiều.
Câu 5:
Chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách và số phận.Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét,các vẻ đẹp khác phải đố kị-''hoa ghen,liễu hờn''nên số phận nàng sẽ éo le đau khổ.
Chân dung Thúy Vân cũng là chân dung mang tính cách,số phận.Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp,êm đềm với chung quanh ''mây thua,tuyết nhường'' nên nàng có cuộc đời bình lặng,suôn sẻ.
Câu 4:
Khi tả Thúy Vân,tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài,cái tình của nàng.Thế nhưng khi tả Kiều,nhà thơ tả sắc một phần cò dành đến hai phần để gợi tả tài năng.Tài của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội phong kiến,gồm đủ cả cầm kì thi họa.Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường năng kiếu đặc biệt(nghề riêng)vượt lên trên mọi người(ăn đứt).Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng.
Cung đàn Bạc mệnh mà kiều tự sáng tác chính là ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là cả sự kết hợp của sắc-tài-tình.Tác giả dùng câu ''nghiêng nước nghiêng thành''để cực tả giai nhân.
Câu 1:
Kết cấu đoạn trích:
+Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều.
+Bốn câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân
+Mười sáu câu còn lại :Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
 
Last edited by a moderator:
N

nuna_devil

Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật dã đạt dến trình độ điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà vẫ giúp người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, gây một ấn tượng khó phai trong lòng mỗi chúng ta.
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều:
Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang viết của Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Mấy chữ ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao đọ của nhà thơ. Bởi lẽ, ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một từ “thốt “ thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,… toàn những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Chắc chắn, Thúy Vân sẽ làm tròn thiên chức một người mẹ, người vợ sau này. Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn:
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về.
Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mua xuân. Cách mieu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh áng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng để tô đạm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ: không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng.
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du.

Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rất mực tài hoa:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” “làu bậc”, “ăn đứt” làm cho cái gìcũng đầy đủ và toàn vẹn. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ tròn tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia thiều:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Ông bà ta xưa cũng đã từng nói: “Một vừa hai phải ai ơi / Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Vậy mà, Thúy Kiều của Nguyễn Du tột đỉnh hơn người. Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trê mỗi chữ dùng của Tố Như. Nguyễn Du biết thế. Bởi, có lúc ông đã phải thốt lên rằng:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nhưng là sao khác được. “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vòng xoáy nghiệt ngã cuẩ định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quí. Hai cô gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
 
T

theworldloveless

Câu 6:
Trong hai bức chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân,rõ ràng bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn,vì:
-Nguyễn Du chỉ dành 4 câu thơ để gợi tả Thúy Vân trong khi đó dành tới 12 câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
-Vẻ đẹp của Thúy Vân chủ yếu là ngoại hình còn vẻ đẹp của Thúy Kiều là cả nhăn sắc,tài năng,tâm hồn,
-Tác giả tả Thúy Vân trước để làm nổi bật lên chân dung Thúy Kiều.
Câu 5:
Chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách và số phận.Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét,các vẻ đẹp khác phải đố kị-''hoa ghen,liễu hờn''nên số phận nàng sẽ éo le đau khổ.
Chân dung Thúy Vân cũng là chân dung mang tính cách,số phận.Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp,êm đềm với chung quanh ''mây thua,tuyết nhường'' nên nàng có cuộc đời bình lặng,suôn sẻ.
Câu 4:
Khi tả Thúy Vân,tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài,cái tình của nàng.Thế nhưng khi tả Kiều,nhà thơ tả sắc một phần cò dành đến hai phần để gợi tả tài năng.Tài của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội phong kiến,gồm đủ cả cầm kì thi họa.Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường năng kiếu đặc biệt(nghề riêng)vượt lên trên mọi người(ăn đứt).Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng.
Cung đàn Bạc mệnh mà kiều tự sáng tác chính là ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là cả sự kết hợp của sắc-tài-tình.Tác giả dùng câu ''nghiêng nước nghiêng thành''để cực tả giai nhân.
Câu 1:
Kết cấu đoạn trích:
+Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều.
+Bốn câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân
+Mười sáu câu còn lại :Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.



Sao không trà lời nốt câu 2,3 đi hả bạn ? ~X:)confused::confused::confused:
 
D

dinhhongngat

3Điểm giống nhau khi tả 2 người là:Thuý Vân và Thuý Kiều đều xinh đẹp.Cả 2 đều có vóc dáng mảnh mai,thanh tao ,tâm hồn trong sáng
Điểm khác nhau khi tả 2 người là vẻ đẹp của thuý vân khiến thiên nhiên phải 'thua','nhường'làm thuý vân hiền hoà.Vẻ đẹp của thuý kiều khiến hoa'ghen',liễu'hờn'cho thầy vẻ đẹp của giai nhân tuyệt thế
2-hình tượng nghệ thuật:khuôn mặt đầy đặn,nét ngài nở nang,hoa cười ngọc thốt đoan trang,mây thua nước tóc,tuyết nhường màu da
-nét riêng về nhan sắc: là những thứ đẹp nhất của thiên nhiên gán vào khuôn mày hoa cũng phải nhún nhường
-nét riêng về tính cách: dịu dàng,đoan trang,khuôn phép,hiền lành,đơn giản
chúc các bạn có 1 ngày học tập vui vẻ
 
C

cassiopeiapark@yahoo.com.vn

1. Tìm hiểu kết cấu đoạn trích:- Bốn câu thơ đầu: giới thiệu về khái quát về hai chị em Thuý Kiều;- Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân;- Mười sáu câu thơ còn lại: vẻ đẹp của Thuý Kiều.Trình tự miêu tả các nhân vật theo kết cấu đoạn trích là miêu tả từ khái quát đến cụ thể.
2. Nét riêng về nhan sắc và tính cách của Thuý Vân được gợi tả bằng các hình ảnh ước lệ (trăng, cười, ngọc, mây, tuyết) trong bốn câu thơ:Vân xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.Vẻ đẹp của Thuý Vân được gợi tả là vẻ đẹp sang trọng, quý phái, đầy đặn, nở nang… về nhan sắc; đoan trang, trung thực, phúc hậu… về tính cách. Hình ảnh chân dung, tính cách còn có tác dụng gợi tả số phận: cuộc đời bình lặng, yên ổn.
3. Nhan sắc của Thuý Kiều được gợi tả bằng các hình ảnh mang tính ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Vẻ riêng của Thuý Kiều được nói đến ở những câu thơ giới thiệu khái quát mở đầu đoạn:Kiều càng sắc sảo mặn mà,So bề tài sắc lại là phần hơn:“sắc sảo” và “mặn mà” đều có tác dụng vừa gợi tả nhan sắc, vừa gợi tả tính cách, tài trí. Về nhan sắc, mặc dù không gợi tả cụ thể như khi tả Thuý Vân, nhưng qua những hình ảnh đậm màu sắc tượng trưng, ước lệ, tác giả đã tạo được ấn tượng về một vẻ đẹp của giai nhân tuyệt thế. Đặc biệt là việc gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: “làn thu thuỷ”; đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người.
4. Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, nhan sắc, tác giả còn nhấn mạnh vẻ đẹp tài năng, tâm hồn của Kiều. ở Kiều hội tụ đầy đủ mọi tài năng theo quan niệm của tư tưởng phong kiến: cầm – kì – thi – hoạ. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tài đánh đàn của Kiều (Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương) và gợi tả về tính cách đa sầu, đa cảm của Kiều qua khúc nhạc nàng tự sáng tác – một thiên “bạc mệnh”. Cũng như khi miêu tả Thuý Vân, những nét riêng về tài và sắc của Thuý Kiều còn gợi ra những dự cảm về số phận, chỉ khác là những nét riêng về tài sắc của Kiều lại gợi ra cái nghiệt ngã, éo le của số phận (theo quan niệm “tài mệnh tương đố” của tư tưởng trung đại). Cho nên, nói: Sắc đẹp của Thuý Vân “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, còn sắc đẹp của Thuý Kiều “Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh” là sự dự báo số phận của hai người là có cơ sở.
5. Trong hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều, bức chân dung Thuý Kiều nổi bật hơn. Điều này phù hợp với dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sáng tạo Truyện Kiều: toàn bộ tác phẩm tập trung xoay quanh câu chuyện về cuộc đời đầy đau khổ của nàng Kiều. Điều này thể hiện ngay ở sự chênh lệch về số lượng câu thơ dành cho việc miêu tả hai nhân vật (4/12). Vẻ đẹp của Thuý Vân được gợi tả về nhan sắc, tính tình còn vẻ đẹp của Thuý Kiều được gợi tả cả về nhan sắc, tài trí, và tâm hồn. Mặc dù Thuý Vân là em nhưng lại được tả trước là vì tác giả muốn tạo ra một phông nền làm nổi bật chân dung của Kiều.
 
Last edited by a moderator:
V

vamps_blues

Câu 5 (Sgk) : Người ta thường nói : Sắc đẹp của Thuý Vân "Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da", còn sắc đẹp của Thuý Kiều "Hoa ghen thua thắm liẽu hờn kém xanh" là sự dự báo số phận của 2 người. theo em có đúng không ? Tại sao lại như vậy ?

Ai giúp với ****************************?
:-SS:-SS:-SS:-SS:(:(:(:(:(:(
 
T

thuphan2001

Bạn có thể tham khảo bài soạn này của tớ


Câu 1. Kết cấu đoạn trích: - -Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều,
- Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
- Mười hai câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp và tài năng hiếm có của Thúy Kiều.
-Bốn câu còn lại: Tài năng và đức hạnh của 2 chị em
-------> Đoạn thơ với kết cấu chặ chẽ, phù hợp với trình tự miêu tả nhân vật của tác giả.
Câu 2. Vẻ đẹp Thúy Vân được tả trong bốn câu thơ đầu. Tác giả đã dùng những hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ để gợi tả vẻ đẹp ấy. Đó là những hình ảnh quá quen thuộc trong văn học trung đại: khuôn mặt tròn trịa đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong veo như ngọc, mái tóc đen óng ả tựa mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết… Đó là vẻ đẹp phúc hậu, quý phái của người thiếu nữ. Vẻ đẹp tạo sự hòa hợp êm đềm với thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Chân dung của Thúy Vân báo hiệu một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ sau này.
Câu 3. Khi gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng nghệ thuật ước lệ: “thu thủy”, “xuân sơn”, hoa, liễu. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt. Bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái “sắc sảo” của trí tuệ, cái “mặn mà” của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” làn nước thu gợn lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng long lanh. Còn hình ảnh “nét xuân sơn” nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú, tươi tắn trên gương mặt trẻ trung.
Câu 4. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc thế nhưng khi tả Thúy Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để gợi tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thậm mỹ phong kiến gồm đủ cả cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu đặt biệt, vượt lên trên mọi người. Cực tả cái tài của Kiều cũng là đê gợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn “bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc, tài, tình. Tác giả dùng thành ngữ có nguồn gốc từ thi liệu Hán học “nghiêng nước nghiêng thành” (người đẹp nhìn một lần nghiêng thành người lại nhìn lần nữa nghiêng nước người) để cực tả giai nhân.
Câu 5. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách, chân dung thể hiện số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác trong tự nhiên phải đố kị “hoa ghen” “liễu hờn”. Đây là những dự báo số phận nàng sẽ éo le, đau khổ.
Câu 6. Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, thì bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn. Chân dung Thúy Vân được miêu tả trước để làm nền, tạo vẻ nổi bật của chân dung Thúy Kiều sau đó. Nguyễn Du dành bốn câu thơ để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới 12 câu thơ đề cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng và tâm hồn

 
Top Bottom