Nếu các bạn hông biết cách học thì đọc cái này nhé :
Nhiều học sinh cho rằng Sinh học là một môn học thuộc lòng không có gì sáng tạo, một số khác lại cho rằng đây là môn học khó vì kiến thức rộng rất khó nhớ và đặc biệt là thi khó đạt được điểm cao (nhất là điểm tối đa).
Những nhận xét trên đều có phần đúng và không đúng.
-Thứ nhất, Sinh học là một môn khoa học đa ngành vì thế nếu muốn học giỏi môn học này người học cần phải giỏi cả các môn học khác như toán, hoá và lí và vì thế rất cần cách học thông minh, sáng tạo. Tuy nhiên, cũng như các môn học khác người học cần phải ghi nhớ kiến thức với các khái niệm cơ bản và học cách vận dụng kiến thức chứ không phải chỉ biết học thuộc lòng một cách máy móc.
- Thứ hai, sinh học là khoa học nghiên cứu về sự sống nên kiến thức rất rộng bao gồm từ mức độ phân tử đến tế bào, cơ thể, quần thể, quần xã và hệ sinh thái. Vì thế muốn nắm bắt được những nguyên lí cơ bản của sự sống cần phải biết cách học, biết cách liên hệ kiến thức của các phần lại với nhau, biết nhìn nhận các mức độ tổ chức của sự sống như những hệ thống mở luôn tự điều chỉnh để thích nghi với môi trường không ngừng biến đổi. Nếu chỉ biết học thuộc lòng mà không tìm hiểu các khái niệm, hiện tương một cách thấu đáo nên khi đi thi gặp các câu hỏi vận dụng đôi chút học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong trả lời.
Sau đây chúng ta hãy xem xét cách học và ôn tập môn sinh học thế nào sao cho có hiệu quả cao. Trước hết khi ôn tập cần lưu ý các điều sau đây:
1. Những điều nên tránh:
- Nhiều lò luyện thi hướng dẫn các em ôn tập theo các câu hỏi cụ thể và ra các đáp án chi tiết để học sinh học thuộc lòng. Cách làm này không hay vì học sinh sẽ bị động và quen kiểu ăn sẵn nên khi không trúng các dạng câu hỏi đã học thường không biết xoay xở ra sao. Ngoài ra, việc cố nhớ đáp án chi tiết cho từng câu hỏi sẽ rất khó, nếu có cố nhớ được cũng sẽ nhanh quên. Hơn nữa, câu hỏi cụ thể thì sẽ vô cùng nhiều vì người ra đề với cùng một nội dung có thể biến báo tạo ra không biết bao nhiêu câu hỏi và câu hỏi khác nhau sẽ có các đáp án khác nhau.
- Không nên học thuộc lòng cả bài cả chương theo như sách giáo khoa. Việc học thuộc lòng từng bài các em có thể thực hiện được khá nhanh nhưng lại nhanh quên. Tuy nhiên, cái chính là cách học này thể hiện học sinh không biết tóm tắt các ý của bài, không biết ý nào là chính ý nào là phụ, cái gì cần nhớ cái gì không. Chính vì cách học như thế rất nặng nề nên học sinh sẽ nảy ra tư tưởng học tủ hoặc có tư tưởng coi cóp trong khi làm bài.
- Không nên ỷ nại vào thầy/cô. Phải quán triệt tinh thần tự học là chính và đề thi chỉ ra trong chương trình đã học nên về cơ bản là chúng ta có thể tự ôn tập được. Nhiều học sinh theo hết khoá học thêm này đến khoá khác, học thêm hết thầy cô này đến thầy cô khác đến nỗi không còn thời gian ở nhà để tự xử lí kiến thức. Kết quả là chỉ có thu thập thông tin về để ghi nhớ nhưng không biết cách xử lí thông tin phục vụ cho việc làm bài sau này.- Không nên quá chú trọng vào việc tìm những câu hỏi khó, quá lắt léo hoặc toán hoá sinh học một cách máy móc mà bỏ qua các câu hỏi nhằm kiểm tra các kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.
- Tránh đi vào chi tiết mà không quan tâm đến tổng thể. Ví dụ, chỉ biết học thuộc lòng các chi tiết của từng bài riêng rẽ mà không thấy được các chi tiết, các bài học và các chương có quan hệ với nhau ra sao. Tóm lại, cần quan tâm đến học cách hệ thống hoá kiến thức tạo dựng nên bộ khung xương sau đó mới học các chi tiết để lắp ráp vào bộ khung đó để xây dựng nên một ngôi nhà kiến thức hoàn chỉnh.
2. Nhưng điều nên làm khi ôn tập:
- Hãy tự kiểm tra xem mình nắm được kiến thức đến mức nào bằng cách gập sách lại và hình dung ra toàn bộ chương trình thi gồm những mảng kiến thức nào. Trong từng mảng đó lại gồm các phần nào và cứ thế chia nhỏ. Nếu có chỗ chưa nắm tốt hoặc cảm thấy “có vấn đề” thì cần giở sách ra học cho bằng được. Sau đây là một trong cách khái quát toàn bộ chương trình sinh học lớp 11 và 12. Từng phần một lại chia nhỏ thành các nhánh.
- Học theo chủ đề mà không học theo các câu hỏi cụ thể. Các chủ đề lớn như nêu trên lại được chia nhỏ thành các đơn vị kiến thức
- Đối với mỗi đơn vị kiến thức cần học theo cách: Nắm chắc khái niệm, cơ chế, ý nghĩa, ví dụ. Chẳng hạn, khi học về đột biến đa bội thể thì cần học khái niệm thế nào là đột biến đa bội, cơ chế phát sinh thể đa bội, phân loại đa bội thể, đặc điểm của thể đa bội, ý nghĩa của đột biến đa bội trong chọn giống và trong tiến hoá, nêu được một số ví dụ về các dạng đa bội.
- ¤n tập theo thứ tự ưu tiên. Mặc dầu đề thi sẽ ra bao quát gần như toàn bộ chương trình nhưng không thể không có trọng tâm. Nếu bám sát theo sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT thì trọng tâm rơi vào lớp 12. Điều đó cũng có nghĩa là phần biến dị và các ứng dụng của di truyền học vào công tác chọn giống cũng như cơ sở di truyền học của sự tiến hoá. Ngoài ra, di truyền và biến dị là hai mặt gắn bó mật thiết với nhau. Chỉ có thông qua nghiên cứu các thể đột biến chúng ta mới tìm hiểu được các qui luật di truyền nên đề thi không thể thiếu được các câu hỏi về đột biến. Tiếp đến là phần di truyền với các qui luật di truyền ở các mức độ phân tử, tế bào, cá thể và quần thể. Di truyền phân tử thì cần học theo: cấu trúc và chức năng của vật chất di truyền (ADN, ARN), quá trình truyền đạt thông tin di truyền (tự nhân đôi ADN, phiên mã và dịch mã) có thể kết hợp ôn tập luôn về đột biến gen. Di truyền tế bào: Cấu trúc nhiễm sắc thể, cơ sở tế bào học của các qui luật di truyền của Menden cũng như liên kết gen và hoán vị gen. Quá trình truyền đạt thông tin di truyền ở mức độ tế bào thông qua các quá trình phân bào nguyên phân và giảm phân. Có thể kết hợp với việc ôn tập về đột biến NST. Các qui luật truyền học ở mức độ cá thể: Qui luật Menden, hiện tượng tương tác gen, liên kết gen và hoán vị gen, liên kết với giới tính, di truyền tế bào chất. Di truyền học quần thể: Qui luật Hacđi - Vanbec (phát biểu nội dung, điều kiện nghiệm đúng, ứng dụng), các yếu tố làm thay đổi tần số alen, tần số kiểu gen của quần thể. Cứ như vậy các em cần xác định những vấn đề cần ôn tập. Về phần sinh thái học: thông thường đề thi có thể có 1 hay 2 câu. Chương trình sinh học 10 về nguyên tắc cũng có thể ra tuy nhiên nếu có thì cũng hạn chế.
- Liên hệ vận dụng kiến thức: Kiểu vận dụng kiến thức đơn giản là giải các bài tập. Theo thứ tự ưu tiên thì bài tập về các qui luật di truyền như liên kết gen, hoán vị gen, qui luật Menden (chú trọng đến các bài tập về phả hệ), tương tác gen, di truyền quần thể rồi mới đến các bài tập về đột biến. Những bài tập về sinh học phân tử như tính tốc độ trượt của ribôxôm vv… có ưu tiên thấp vì những bài tập kiểu này mang tính toán hoá một cách máy móc. Những bài tập nâng cao thuộc loại kết hợp các dạng với nhau ví dụ, vừa di truyền liên kết với giới tính vừa có hoán vị gen vv… Tuy nhiên, tránh đi vào những bài tập quá phức tạp vì mức độ ưu tiên khi ra đề của loại này là khá thấp.