[Sinh 11] Truyện kể về các nhà sinh học

L

linh030294

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Gregor Johann Mendel



Gregor Johann Mendel (1822-1884), ông tổ ngành di truyền học
T%E1%BA%ADp_tin:Gregor_Mendel.png
Năm 1865 từ tu viện Brno ( của nước Áo thời đó) thầy tu Gregor Johann Mendel đã lần đầu tiên phát hiện ra những quy luật của hiện tượng di truyền. Ngày nay ông được công nhận là cha đẻ của ngành Di truyền học, nhưng những công trình của ông lúc bấy giờ giới khoa học không mấy chú ý lắm.
Sinh ngày 22-07-1822 tại Heisendorf, một làng nhỏ nước Moravie (Tiệp Khắc), trong một gia đình nông dân nghèo. Ông thừa hưởng được niềm say mê làm vườn của bố mẹ. Ngay từ nhỏ ông đã có hứng thú chăm sóc cây cối trong vườn và ông luôn là một học sinh giỏi. Cậu học trò đặc biệt giỏi này đã gây sự chú ý của một vị tu sĩ của làng và được ông này cho đi xa tiếp tục học. Mendel phải vừa làm việc vừa học vì tiền trợ cấp gia đình không đủ sống. Tốt nghiệp với tấm bằng xuất sắc ở bậc Trung học, Mendel được Nhà thờ chọn đi học về Triết học. Vì nhà quá nghèo nên năm 21 tuổi ông phải tạm bỏ học. Năm 1840 ông vào viện Triết học Olomouc để học hai năm dự bị lên đại học. Lúc bấy giờ Mendel phải nhờ nửa số tiền hồi môn của người chị gái đã trợ cấp cho Mendel tiếp tục đi học. Sau hai năm học, ông chán nản vì thiếu tài chánh nên cuối cùng ông nghe lời một trong các giáo sư của ông là nhờ cha Napp giới thiệu ông vào dòng tu để có thể tiếp tục học. Bốn năm sau ông trở thành Linh mục. Từ lúc vô dòng tu, ông hài lòng vì có đủ điều kiện để nghiên cứu về Khoa học Tự nhiên. Song song với việc học, ông đi dạy các trường trung học. Nhưng năm 1849 đạo luật bắt các giáo sư phải có ngạch đại học. Nhờ cha Napp giúp, Mendel được vào Ðại học Vienne năm 1851 để tiếp tục học. Ông được học các môn Toán, Lý, Hoá, Thực vật học và Động vật học. Năm 1853 ông tốt nghiệp Đại học và lại trở về tu viện ở quê nhà. Khi trở về Vienne, Mendel lập ra một vườn khảo cứu và bắt đầu những thí nghiệm về sự lai giống.
Vườn thực nghiệm của Mendel nơi sân của tu viện Brno
Năm 32 tuổi ông được cử làm giáo viên của Trường Cao đẳng thực hành ở Brunn (nay là Brno thuộc nước Cộng hoà Czech) .
Từ năm 1856 đến năm 1863 ông âm thầm làm những thí nghiệm công phu trên đậu Hòa Lan. Năm 1865 ông trình bày các kết quả thực nghiệm của mình tại Hiệp hội khoa

Ông nghiên cứu về sự lai giống của đậu Hà lanhọc tự nhiên Thành phố Brno và một năm sau các kết quả nghiên cứu này được công bố (Versuche uber Pflanzenhybriden) trên tập san của Hiệp hội và gởi cho những cơ quan khoa học trên thế giới nhưng không
được ai chú ý đến cả. Thế giới khoa học lúc bấy giờ chưa sẵn sàng đ công nhận điều quan trọng của những kết quả mà ông đã tìm ra.Ông phát hiện thấy cây đậu bố mẹ có thể truyền lại cho con cái những nhân tố di truyền riêng rẽ và nhấn mạnh rằng các nhân tố di truyền (ngày nay gọi là Gen) duy trì được các tính chất cá biệt của chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các thực nghiệm của ông vừa mang tính chất thực nghiệm vừa mang tính chất chính xác toán học. Ông đã sử dụng 7 cặp tính trạng khi tiến hành lai tạo: Hoa tía- Hoa trắng, Hoa mọc nách- Hoa mọc ngọn, Hạt vàng- Hạt xanh, Hạt trơn- Hạt nhăn, Quả trơn-Quả nhăn, Quả xanh-Quả vàng, Cây cao- Cây thấp. Các thí nghiệm của ông hết sức phong phú và chính xác. Nhưng tiếc thay, thực nghiệm của Mendel đã bị chìm đi trong sự thờ ơ của tất cả mọi người. Chả ai chú ý đến các cây đậu Hoà Lan của Mendel và không nhận ra được sau các cây đậu được lai tạo một cách công phu này là một thiên tài mà sau này được cả nhân loại tôn vinh là Ông tổ của ngành Di truyền học. Ông vẫn miệt mài vừa dạy học, vừa truyền đạo và vừa tiếp tục làm thực nghiệm trong vườn của tu viện. Năm 1868 ông được phong chức Tổng Giám mục. Ông còn là người sáng lập ra Hôi nghiên cứu Thiên nhiên và Hội Khí tượng học của thành phố Brno. Năm 57 tuổi ông được cử làm Giám đốc Tu viện. Ngày 6-1-1884 ông qua đời sau một tai biến do viêm thận.
Mãi 6 năm sau ngày ông qua đời các nghiên cứu quý giá của ông mới được nhân loại biết tới thông qua các nghiên cứu độc lập nhưng cùng một lúc (1900) của 3 nhà khoa học ở 3 quốc gia khác nhau: H. M. de Vries (Hà Lan), E. K. Corens (Đức) và E. V. Tschermak (Tiệp Khắc cũ). Nhờ ba nhà khoa học công nhận công trình của nhà tu Mendel nên thuyết Mendel mới ra đời được. Và năm 1900 được coi là năm ra đời của Di truyền học.
Tại Pháp có nhà khoa học Cunio và Hòa Lan có Bateson đã đem những định luật của Mendel để áp dụng vào sự lai giống cho động vật (chuột) và thấy kết quả cũng giống như thực vật (đậu hòa lan)
 
Last edited by a moderator:
L

lananh_vy_vp

Tômơt Han Moocgan (Thomas Hunt Morgan) sinh ngày 25-9-1866 tại Mỹ. Năm 20 tuổi ông tốt nghiệp đại học. Năm 24 tuổi đã nhận học vị tiến sĩ khoa học.

Lúc đầu Moocgan nghiên cứu về phôi sinh học thực nghiệm, sau đó sang vấn đề di truyền. Năm 1910 ông công bố công trình "Nhân tố di truyền". Năm 1915 ông xuất bản cuốn "Cơ chế của di truyền học Mendenl" để chứng minh sự đúng đắn của học thuyết. Năm 1926 ông có tác phẩm "Học thuyết về gen" để trình bày rõ và sâu về cơ sở vật chất nhiễm sắc thể và gen của tính di truyền.
 
L

linh030294

Aristoteles - Nhà sinh học kiệt xuất (384-322 trước Công lịch)



Aristoteles
Trong một bức thư gửi cho bạn, Charles Darwin (1) đã viết: “...Linnaeus (2) và Cuvier (3) đều là thần tượng của tôi, theo những cách hiểu khác nhau, nhưng cả hai người đó đều chỉ là những học trò nhỏ so sánh với ông thầy vĩ đại Aristoteles”. Hẳn lời nhận xét trên cũng đủ để xác định tầm cỡ và mức giá trị của Aristoteles, nhà Sinh học thời Cổ đại. Tất nhiên đây chỉ là nhận xét giới hạn trong phạm vi của Sinh học, còn giá trị đích thực của Aristoteles đã tỏa sáng trong mọi hoạt động khoa học bởi vì ông thật sự là một nhà bác học tài năng của mọi thời đại.

Aristoteles ra đời vào mùa hè năm 384 trước Công lịch tại Stagira (thuộc Hy Lạp) trên bán đảo Chalcidice, nay thuộc làng Stavros, gần vịnh Strymonic, trên vùng Tây Bắc bờ biển Aegea, trong gia đình ông Nicomachus. Là một thầy thuốc Hy Lạp tài năng thuộc trường phái Asclepiad (theo truyền thuyết, Asclepiados là vị thần y học), ông Nichomachus còn là bạn đồng thời là y sĩ riêng của đức vua Amyntas III, tại Pella, thủ đô của Macedonia. Từ nhỏ, Aristoteles vẫn thường đi theo cha để học hỏi cách băng bó vết thương và nghe giảng giải về các loại cây lá chữa bệnh. Sau khi mồ côi cha mẹ, nhờ sự giúp đỡ của Proxenus, một người thân của gia đình, cuộc sống của Aristoteles lặng lẽ trôi qua trong cung điện xa hoa lộng lẫy, những khu vườn đầy hoa lá tuyệt đẹp quanh Hoàng cung và nhiều thôn dã ở vùng Atarnea. Năm 17 tuổi, chàng thanh niên Aristoteles rời bỏ cuộc sống vương giả đến Athene theo học Trường Academia (Hàn lâm) dưới sự hướng dẫn của các thầy Plato và Socrtes, những nhà Triết học nổi danh khắp vùng.

Suốt 20 mươi năm làm việc tại đây, Aristoteles đã có những đóng góp lớn cho trường phái của các thầy dạy. Ông không chỉ bảo vệ truyền bá những quan điểm Triết học đến khắp nơi trong vùng, say mê học hỏi, giảng dạy, nghiên cứu đến mức được các thầy và bạn bè gọi là “linh hồn của Academia”. Chính trong thời gian này, ông đã soạn thảo các tác phẩm về Lôgíc học, Triết học và những chuyện đối thoại, về sau được tập hợp thành các tác phẩm như “Về linh hồn”, “Về công lý”...

Sau khi Plato, người thầy yêu quý, qua đời vào tháng 5 năm 347 trước Công lịch, cùng với Xenocrates, người bạn đồng học, ông đã rời khỏi ngôi trường thân thương và thành phố Athene. Xenocrates và Aristoteles là hai con người hoàn toàn trái ngược nhau: chính thầy Plato đã nhận xét: “... Bạn hãy tưởng tượng tôi phải huấn luyện một con lừa để ganh đua với một con ngựa. Một bên cần dùng một cái cựa sắt để kích động, còn bên kia cần một dây cương để hãm chậm...”. Aristoteles đến Hoàng gia Hermias, vị quan cầm quyền của Assus, một thị trấn nhỏ của vùng Mysia thuộc Tây Bắc Tiểu Á, trên bờ biển Địa Trung Hải (đối diện với đảo Lebos, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Chính trong thời gian này, ông đã nghiên cứu kết hợp Triết học với Chính trị và soạn thảo mười hai chương đầu tiên của tập 7 trong bộ sách “Chính trị” (Politica). Trong thời gian ở Assus, ông viết tác phẩm “Về triết học” với văn phong nhẹ nhàng, dễ hiểu và được giới khoa học thời đó rất ưa đọc. ít lâu sau, ở tuổi 37, Aristoteles lập gia đình với cô Pythias, cháu gái 18 tuổi của Hermias. Nhưng cuộc sống gia đình hạnh phúc quá ngắn ngủi: bà vợ trẻ sớm qua đời để lại cho ông một đứa con gái nhỏ mang tên mẹ Pythias. Sau đó, cùng với Theophrastus of Eresus, người cộng sự năm xưa của ông tại Academia, ông giảng dạy và nghiên cứu sinh học biển tại Mytilene, một thành phố cảng trên đảo Lebos suốt hai năm (345-343)...

Năm 342 trước Công lịch, con trai của vua Amyntas III là vua Philip II lại mời ông trở về Macédonia để làm gia sư cho cậu con trai mười ba tuổi là Alexander. Chẳng ai biết thật rõ những gì ông thầy Aristoteles 42 tuổi đã dạy cho cậu học trò nhỏ, chỉ biết rằng cậu học trò non nớt kia đã tíêp thụ đầy đủ những lời giáo huấn của thầy để sau này trở thành một danh nhân vĩ đại của lịch sử: đó là Alexander Đại Đế. Năm 339, Aristoteles trở về thành phố quê hương Stagira, nhưng ông cũng không ở lại quê hương được lâu.

Sau khi lên ngôi trị vì đất nước vào năm 336 trước Công lịch, đức vua Alexander 20 tuổi đã cho xây dựng lại Stagira, thành phố quê hương của Aristoteles đồng thời cho tạc tượng thầy để ghi nhận công ơn dạy dỗ của thầy. Mặc dù đã nhiều năm làm việc ở Hoàng cung Macedonia, nhưng Aristoteles vẫn không quen với cuộc sống vương giả nơi cung đình, đặc biệt oong không tán thành những cuộc chinh chiến xâm lược của vị vua trẻ tuổi và mong muốn theo đuổi công việc khoa học riêng tư. Do vậy, đức vua Alexander Đại Đế đã cung cấp tiền bạc, đất đai để mong muốn thầy Aristoteles mở ngay một khu trường mới tiếp tục sự nghiệp trồng người.

Khoảng năm 335, khu trường có tên gọi là “Lyceum” vừa mới được xây dựng tại vùng Đông Bắc thành phố Athene đã nổi danh khắp vùng. Thầy Aristoteles, lúc này đã 50 tuổi, thực hiện ngay công việc đầu tiên: thành lập một thư viện đầy đủ sách và một nhà bảo tàng khoa học tự nhiên để lưu trữ các bản đồ, những vật liệu cần thiết cho việc dạy học. Phong cách dạy học của thầy cũng thật lạ lùng: Buổi sáng, thầy dẫn học trò vào khu vườn cây nhỏ, vừa đi thầy vừa đặt câu hỏi để học trò thảo luận. Học trò buộc phải ngắm nhìn quan sát mọi hiện tượng, mọi chi tiết trong thiên nhiên, rồi tất cả cùng bàn cãi, cuối cùng thầy sẽ giảng giải và kết luận. Chính hình ảnh lạ kỳ, thầy giáo vừa đi vừa dạy học trò, đã làm người dân ngạc nhiên và đặt tên trường là Peripatos (có nghĩa là “rong chơi”) Lyceum. Buổi chiều, thầy trò lại họp nhau trong phòng để phẫu tích các động vật và côn trùng. Thầy luôn nhắc nhở học trò: “Phải quan sát, rồi lại quan sát kỹ hơn nữa, đấy là bước đi đầu tiên của mọi khoa học...”. Khu trường là nơi tập hợp các trợ lý và học viên dưới sự hướng dẫn của thầy Aristoteles để hoạt động nghiên cứu Khoa học và Triết học trong tinh thần vừa độc lập suy nghĩ vừa cộng tác chặt chẽ. Những người cộng sự và học trò thời đó đều ghi nhận thầy Aristoteles là một con người mảnh khảnh, nét mặt đẹp với đôi mắt hơi nhỏ, nói nhanh nên thường nói nhịu (nói lắp), quần áo của thầy luôn chững chạc, may bằng loại vải đắt tiền.

Suốt 12 năm liền, hoạt động của Peripatos Lyceum đã đem lại những kết quả to lớn. Thời gian này, Aristoteles đã viết nhiều tài liệu dùng trong giảng dạy và giúp các học viên có thể đọc, suy ngẫm rồi thảo luận, do vậy các tài liệu đó thường đầy rẫy những chữ viết tắt, không được giải thích nên thật khó hiểu cho các dịch giả sau này muốn xuất bản các tác phẩm của ông. Các trợ lý và học trò của Aristoteles, sau khi đi theo các cuộc chiến chinh của Alexander Đại Đế qua Ba Tư và ấn Độ đã mang về cho Lyceum rất nhiều tài liệu và mẫu vật quý giá. Nhờ vậy, Aristoteles và trường phái của ông đã thực hiện được nhiều phát hiện và nhận xét quan trọng đặt nền tảng cho những hiểu biết và sự phát triển của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là Sinh học và Lịch sử, cho thời đó và cả nhiều thế kỷ sau. Ông đã nhận được sự cộng tác, hỗ trợ quý giá của Thephrastus (về Thực vật học) và Meno (về Y học). Phần lớn những công trình nghiên cứu và tác phẩm của Aristoteles đều được thực hiện tại Lyceum, trong đó có khoảng 158 bài viết về các hệ thống chính trị (được tìm thấy trên các bản giấy papyrus, vào năm 1890). Trên nhiều lĩnh vực, ông đã tiến xa hơn cả thầy Plato năm xưa. Thời gian này, Aristoteles đã lập gia đình lần thứ hai với Herpyllis và đôi vợ chồng có một người con trai tên là Nichomachus.

Năm 323 trước Công lịch, khi Alexander Đại Đế qua đời, những cuộc bạo loạn chống Macedonia bùng nổ lan rộng khắp Athene và nhiều thành phố khác. Những nhóm cuồng tín kết án Aristoteles vào tội nghịch đạo và thân Macedonia. Để thoát khỏi kết cục bi thảm như Socrates, ông vội vàng rời thủ đô đến Chalcis (nay là Khalkis), trên đảo Euboea, vùng eo biển Evripos, ở phía Bắc Athene. Năm sau (322 TCL), ông qua đời tại đây sau một cơn đau dạ dày bộc phát, hưởng thọ sáu mươi hai tuổi.

Sau khi Aristoteles qua đời, ngôi trường Lyceum nổi tiếng một thời vẫn còn tồn tại khoảng gần ba thế kỷ dưới sự dẫn dắt của Theophratus và những học trò thuộc trường phái của ông. Nhưng các tác phẩm của Aristoteles đã phải trải qua nhiều cuộc thăng trầm. Năm 287 trước Công lịch, khi Theophratus tạ thế, toàn bộ thư viện của trường bao gồm các tác phẩm của Aristoteles được chuyển giao cho gia đình Neleus of Scepsis ở Troad. Đến những năm đầu của thế kỷ 1 trước Công lịch, số sách này được bán cho nhà sưu tập sách Apellicon of Teos rồi sau khi nhà sưu tập từ giã cõi đời (khoảng năm 84 trước Công lịch), vị tướng La Mã L.Cornelius Sulla, trong cuộc chiến chinh đến Athene, đã mang các tác phẩm quý giá về Roma. Một nhà nghiên cứu ngữ pháp tại thủ đô Italia là Tyrannion đã tìm cách mua lại, nhờ đó tạo điều kiện để Andronicus of Rhodes với sự trợ giúp của người học trò là Strabo cho xuất bản các tác phẩm của Aristoteles vào khoảng những năm 43-20 trước Công lịch.

Phần lớn trong số 400 công trình nghiên cứu của Aristoteles đều bị thất lạc hoặc huỷ hoại. Mãi tới thế kỷ 13, khoảng 50 tài liệu còn lưu trữ mới được chuyển từ Constantinople và Tây Ban Nha đến Tây Âu và được dịch sang tiếng Latinh. Nhìn tổng quát, có thể chia các tác phẩm của Aristoteles ra thành 4 nhóm lớn:

1. Các bàn luận về Triết học, nay được gộp chung dưới tiêu về “Organon”, với nội dung chủ yếu về lý luận và định nghĩa.

2. Các bài viết về Lịch sử tự nhiên và Khoa học, trong đó quan trọng nhất là các tập “Lịch sử động vật”, “Bàn về các bộ phận của động vật” “Về sự tiến triển của động vật” (đề cập đến bản chất và nguyên nhân các sinh thái), “Hoạt động của giới động vật”, “Quá trình tái tạo của động vật” (bàn về các chức năng chung của cơ thể và linh hồn). Cuốn “Nghiên cứu các động vật” là một tập hợp những dữ kiện về đời sống các loài vật. Ông đã mô tả khoảng 500 loại động vật (phần lớn thu thập từ đảo Lebos). Chính Aristoteles đã đặt ra nhiều thuật ngữ Giải phẫu học như: “aorta” (động mạch, để chỉ một động mạch xuất phát từ tim), “rectum” (trực tràng, để chỉ đoạn ruột đi thẳng xuống hậu môn). Aristoteles cũng phân biệt các loại mô khác nhau (như mỡ, xương, limphô...) và nhiều cấu trúc Giải phẫu học (như thực quản, khí quản, các xoang mũi, mê cung tai, đại tràng, manh tràng...) Bản thân Aristoteles không viết tài liệu về Thực vật, lĩnh vực này ông dành cho người học trò danh tiếng của ông là Theophratus.
 
L

linh030294

Phần tiếp :


3. Các bàn luận được gộp chung trong tác phẩm “Siêu hình học”, tiêu đề này được ông đặt tên là “Triết học đầu tiên”. Đây là phần tập hợp các bài giảng của ông viết trong giai đoạn giảng dạy cuối cùng ở Lyceum tại Athene, với những nội dung đề cập đến trái đất trong mối liên quan với các thiên thể, khí hậu, các điều kiện sinh tồn.

4. Các tác phẩm về Chính trị và Đạo đức học, trong đó bao gồm cả Thi ca và Tu từ học.

Cùng chung số phận như nhiều tác phẩm của các nhà khoa học viết ở thời kỳ trước Công lịch, nhiều công trình của Aristoteles đã bị thất lạc, một số có thể do những cộng sự hoặc học trò ghi lại theo lời giảng dạy của ông. Dẫu sao, qua việc nghiên cứu những tác phẩm còn được lưu trữ, các nhà khoa học đều khẳng định Aristoteles có những đóng góp to lớn trong công việc định nghĩa rồi phân loại đủ mọi hiểu biết của con người trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt trong phạm vi Sinh học, có thể coi Aristoteles là người mở đường cho ngành khoa học này.

Có lẽ người cha vốn la một thầy thuốc giỏi đã ảnh hưởng tác động mạnh đến tâm trí của Aristoteles từ tuổi ấu thơ nên ông đã sớm có xu hướng tìm hiểu thế giới sinh vật. Đặc điểm nổi trội nhất trong toàn bộ công trình nghiên cứu Sinh học của ông là khối lượng to lớn những nhận xét phong phú khi mô tả giới động vật. Trong khối lượng đó, các nhà khoa học của thế kỷ XX vẫn hứng thú vì tìm thấy những dữ kiện về đời sống động vật, những nguyên nhân tạo ra các hình thái sống, các chức năng chung của cơ thể và linh hồn.

Trong suốt quá trình nghiên cứu Sinh học, Aristoteles đã phát hiện ra chu trình biến đổi của thiên nhiên: các sinh thái luôn cố gắng tự thân để hoàn thiện hơn, nhưng các động vật luôn luôn là những cá thể không vĩnh cửu nên chúng cũng phải tuân theo một chu trình sống và chết, hình thái liên tục này giống như bản sao chép vòng quay của vật chất. Kết quả đó là hiện tượng đến để tồn tại rồi qua đi, liên tục và không ngưng nghỉ. Như vậy hình thành và hủy hoại là những bậc thang của mọi giống loài. Người sinh ra người và cây sồi lại tạo ra cây sồi. Quan niệm này có lẽ phần nào đã loại bỏ mọi quá trình tiến hóa của các loài.

Các nhà khoa học ngày nay cũng nhận thấy Aristoteles luôn nhấn mạnh đến tính liên tục giữa Sinh học và Vật lý học khi ông đề xuất luận thuyết về bốn yếu tố tự nhiên (không kể đến aether). Các yếu tố này đều có vị trí trong thiên nhiên: đất ở trung tâm vũ trụ (theo cách hiểu của thời đó), còn nước, không khí và lửa cũng như chúng ta đều di chuyển bên ngoài. Các yếu tố đó là những thành phần cấu tạo nên vật thể, giản đơn hoặc phức tạp, chúng đều không vĩnh cửu nhưng có thể chuyển đổi từ cái này sang cái kia để tạo nên những hỗn hợp khác nhau. Chính hoạt động di chuyển đến gần hoặc lùi xa của mặt trời đã trở thành nguyên nhân tạo nên sự chuyển dạng không ngừng của các yếu tố đó. Điều này cũng giải thích lý do vì sao các yếu tố trên không hiện diện mãi ở đúng vị trí của chúng. ở bên trong các yếu tố đó là vật chất nguyên thủy, nhưng chất này không tồn tại riêng biệt. Một số đặc tính cơ bản đối kháng cũng hiện diện ở ngay bên trong các yếu tố (như lạnh và khô ở đất, nóng và ẩm ở không khí) nhưng cũng không tách biệt. Nóng và lạnh là những đặc tính chủ động, còn khô và lỏng là thụ động. Hiệu quả của sức nóng là tạo dựng, đây cũng là nguyên lý của sự sống và quá trình phát triển, còn lạnh ở bên trong kết hợp với nóng ở bên ngoài sẽ gây hủy hoại thối rữa.

Như vậy, các yếu tố cơ bản và các dạng kết hợp đều thuộc lĩnh vực của những chất không sống, vốn chỉ hoạt động do những tác nhân bên ngoài. Rồi đến các hình thái sống, trước tiên là cây cỏ, với những thành phần cấu tạo khác biệt, có thể tác động tương hỗ lẫn nhau. Do đó cây cỏ không phát triển và tái sinh do những nguyên nhân bên ngoài, mà tự thân chúng còn tăng trưởng và tái tạo. Các động vật cũng có những chức năng thực vật như thế, nhưng lại được thiên phú thêm những cơ quan cảm thụ, vì vậy chúng có khả năng nhận biết các sự vật trong môi trường để tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh tồn của chúng cũng như né tránh những điều bất lợi và nguy hại đối với chúng. Các vật thể cấp cao đều được tạo dựng từ những vật thể cấp thấp và có lẽ hình thành từ đó qua một quá trình biến đổi tiệm tiến, mặc dù về mặt này, quan điểm của Aristoteles không thật rõ ràng.

Ở cấp cao nhất trong các hình thái sống trên mặt đất là con người, đây cũng là nội dung Aristoteles đã nghiên cứu và trình bày trong tác phẩm “Về động vật”. Với quan điểm tâm lý là một dạng biểu hiện của sinh thái nên Aristoteles khẳng định Tâm lý học và Sinh học là hai lĩnh vực không thể tách rời. Chính vì vậy, ông ghi nhận rằng mặc dù con người cũng là một vật thể nhưng là một vật thể hoàn toàn khác biệt trong thiên nhiên. Cũng như mọi hình thái tự nhiên khác, con người bao gồm chất liệu nền, cơ thể người, và một dạng tạo sinh lực cho chất liệu ấy: đó là linh hồn người. Nhưng khác với quan điểm của thầy Plato mà xưa kia ông từng thụ giáo, Aristoteles không chấp nhận rằng linh hồn là một thực thể tâm linh độc lập. Cả hai thành phần cấu tạo trên đều không được đơn thuần xếp đặt kề bên nhau mà là hai thực thể cơ bản tương hỗ, cái này tồn tại nhờ vào ưu thế của cái kia, trong một cá thể kết hợp hoàn chỉnh. Như thế, cơ thể người và linh hồn là hai động lực tự thân tạo nên một vật thể tự nhiên: cá thể người. Aristoteles xác nhận rằng cá thể đó được cấu tạo từ ba phần thống nhất. Trước tiên, đó là phần thực vật có vai trò giúp cá thể tự nuôi dưỡng để phát triển và để tái tạo giống loài. Rồi đến phần động vật giúp cá thể cảm thụ, ham muốn những thực thể đã gây cảm xúc di chuyển từ nơi này đến nơi kia như mọi động vật khác. Và cuối cùng là phần đặt con người vào vị trí cao nhất trong bậc thang các hình thái sống trong thiên nhiên: phần lý trí. Chính nhờ phần này mà con người đã có khả năng thực hiện được những chức năng tinh tế thật kỳ lạ để trở thành một sinh thái hoàn toàn khác biệt với mọi hình thái sống. Mỗi một phần thuộc ba phần trên nhất thiết phải phát triển đầy đủ các khả năng cần có để tự thân hoạt động. Do vậy, phần thực vật chịu trách nhiệm về các tạng và các chức năng nuôi dưỡng, tăng trưởng và tái tạo; phần động vật chịu trách nhiệm về các tạng và các chức năng cảm nhận di chuyển; còn phần lý trí chịu trách nhiệm về các khả năng phi vật chất như hoạt động tinh thần, chọn lựa có suy nghĩ và nghị lực thực hành. Thông qua hoạt động chức năng của linh hồn, các khía cạnh đạo đức và trí tuệ của con người đã được phát triển, và theo cách hiểu đó, linh hồn tạo cầu nối giữa cơ thể và những đạo đức biểu hiện qua các hành vi và ứng xử.

Khi bàn về linh hồn cũng như về bốn hoạt động chức năng cơ thể - tăng trưởng, cảm thụ, di chuyển và suy nghĩ - Aristoteles luôn khẳng định sự khác biệt giữa người và các loài động vật cấp thấp. Các loài này có phản ứng với những cảm thụ, rồi những cảm thụ ảnh hưởng đến hoạt động trí não và có thể lưu trữ trong ký ức. Còn con người thì sao? ở đây thể hiện sự khác biệt rõ rệt nhất: Con người có khả năng xét đoán dựa trên kinh nghiệm và hoạt động xét đoán này biểu hiện quá trình tác động mạnh của những cảm thụ trên lý trí để định hướng cho sự sống. Khi kết hợp linh hồn con người với vật thể con người, Aristoteles đã đóng góp ba điểm nổi trội về Tâm lý học cho Lịch sử Khoa học:

1. Loại bỏ rất nhiều điều thần bí liên quan đến linh hồn và các hoạt động tâm linh vốn đầy rẫy trong khoa học Hy Lạp.

2. Cung cấp một phương pháp nghiên cứu thỏa đáng cho mọi lĩnh vực khoa học và đặt nền tảng cho tư duy lôgíc qua việc thu thập các dữ kiện nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất.

3. Sáng tạo cách tiếp cận đối chiếu tâm linh - vật thể cho nền khoa học hiện đại.

Aristoteles xác nhận rằng nguồn gốc sâu thẳm của mọi hoạt động ở các hình thái sống chính là sức nóng mà ông thường gọi là “nhiệt nội sinh” hoặc “thở hít”, đây cũng là “dụng cụ” của linh hồn tác động bằng cách đẩy và kéo những bộ phận khác nhau của cơ thể nhằm tạo hiệu quả phục vụ cho những ham muốn của linh hồn. Quan điểm này là nội dung chính của luận thuyết “khí hợp sinh” (connate pneuma) nổi tiếng của Aristoteles.

Theo cách nhìn này, Aristoteles là nhà khoa học đầu tiên đã phân loại giới động vật thành hai hệ thống lớn: hệ có máu (nghĩa là máu đỏ) và hệ không máu, đây là cách xếp loại dựa trên nội dung “nhiệt” và là đặc điểm đầu tiên của cách phân loại động vật. Có thể nói rằng cách phân loại này tương tự như kiểu xếp loại thành hai hệ động vật: có xương sống và không xương sống, tuy cách đó không hoàn toàn phù hợp đúng, bởi vì một vài động vật không xương sống cũng có máu đỏ. Trong hệ động vật có máu, Aristoteles đã xếp đặt những động vật nào? Ông đã ghi: con người, các động vật bốn chân đẻ con và đẻ trứng, rắn, lưỡng cư, chim và cá. Còn trong hệ động vật không máu? Hệ này gồm: giáp xác (tôm cua), chân đầu (thân mềm), côn trùng và vỏ cứng. Nhóm cuối là dạng trung gian giữa động vật và thực vật.

Một đặc điểm thứ hai trong cách phân loại động vật của Aristoteles là dựa vào phương thức tái tạo: giống đực cung cấp hình thái (nghĩa là linh hồn) còn giống cái cung cấp vật liệu (nghĩa là các bộ phận cơ thể, nơi tiếp nhận sự sống từ linh hồn). Cách phân loại này cũng liên quan đến nhiệt: các thế hệ sau, các con, cháu sẽ có những đặc điểm càng giống cha, ông khi những thế hệ trước càng chứa đựng nhiều “nhiệt sinh lực” nhất. Xếp hàng đầu trong hệ phân loại này là các động vật đẻ con (như người). Tiếp sau đó là những động vật (như chim) đẻ ra trứng hoàn chỉnh (nghĩa là trứng không tăng kích thước sau lúc lọt lòng). Rồi đến động vật đẻ trứng lẫn con (như cá Selachii, loại cá có sụn như cá mập, cá tia vây, cá đuối...), nghĩa là hình thành trứng không hoàn chỉnh (gồm cá, thân mềm và thân giáp) rồi đến động vật đẻ ấu trùng (gồm côn trùng) và cuối cùng là những hình thái được sản sinh qua nẩy chồi và tự tạo sinh trong đám vật chất thối rữa và bùn nhớt sủi bọt.

Trong khi nghiên cứu quá trình tái tạo các loài, Aristoteles không chỉ quan tâm đến giới và tính di truyền, mà ông còn chú ý cả đến những yếu tố môi trường, quá trình đấu tranh để tồn tại, do vậy ông đã phân tích các chức năng khác nhau và cách phản ứng của từng tạng và bộ phận cơ thể. Ông luôn chú ý đến cái mục đích cuối cùng của sự sống cũng như của mọi hoạt động tái tạo và sinh tồn. Theo Aristoteles, đây cũng là trách nhiệm của nhà Sinh học trong suốt quá trình nghiên cứu sự sống hữu cơ. Trong cách phân loại dựa trên phương thức tái tạo như vậy, mặc dù nhận biết thấy có những điểm lấn chéo nhau giữa các giống loài nhưng Aristoteles vẫn chưa tìm được cách sắp xếp hợp lý hơn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm của Aristoteles bàn về Sinh học, các nhà khoa học hiện nay vẫn xác nhận rằng cách phân loại các hình thái sống như vậy đã đặt nền tảng cho những “bậc thang thiên nhiên” (scala naturae) giống như một kiểu mẫu quy ước cho các nhà động vật học suốt nhiều thế kỷ về sau.

Là một nhà bác học toàn năng, Aristoteles đã được tạc tượng ngay lúc sinh thời, có khoảng 14 bức tựơng bán thân còn được lưu giữ, trong đó tượng đẹp nhất đã sao chép từ nguyên bản được hoàn tất theo yêu cầu của Alexander Đại Đế và nay được đặt tại Bảo tàng Lịch sử Nghệ thuật ở Vienna, thủ đô nước Áo.
 
A

azuredragonzx

Các bạn thông cảm tí nhé, mình cũng tìm tài liệu tiếng Việt về 2 pa này rồi nhưng không có, post tạm tiếng Anh lên vậy, coi như là giúp mọi người tăng thêm vốn từ vựng luôn :))

Francis Crick and James Watson, discoverers of the DNA molecular structure. One of the most important biological discovery in the 20th century.

Francis Crick was born on June 8, 1916 in Northampton, England, into a middle-class family. He began doing science experiments in his home when he was ten years old. He graduated with a degree in Physics from University College in London.

James Watson was born on April 6, 1928 in Chicago, and at the age of 15 enrolled in Chicago University and majored in zoology. He received a Ph.D. in genetics from Indiana University, when he was 22 years old. In 1951, he joined Francis Crick at Cavendish Laboratory in Cambridge, England. He was only 23 years old when his greatest discovery was made.

Linus Pauling's work on the structure of biomolecular and hydrogen bonding formed the basis of Crick and Watson's study of DNA. Speaking of Pauling's work, Watson stated,

"In 1931, when he was 30, Linus Pauling knew he was the world's best chemist. Ten years later his peers agreed. By then, The Nature of the Chemical Bond (1939) was already on its way to becoming the most influential chemistry book of the century. His biggest biological success came from his 1951 proposal of the alpha-helical fold for protein molecules, which everybody else thought were too large and complex to study. Then, unexpectedly, he struck out when he proposed an implausible, three-chain helix for DNA. Several months later, in Cambridge, England, Francis Crick and I, apprehensive that Linus might bat again, found the double helix. Why Linus failed to hit this home run will never be known. I most remember Pauling from 50 years ago, when he proclaimed that no vital forces, only chemical bonds, underlie life. Without that message, Crick and I might never have succeeded."

In 1953, James Watson and Francis Crick discovered the molecular structure of DNA. Underplaying their discovery, in a letter to scientist Max Delbruck, James Watson wrote,

"In the next day of so, Crick and I shall send a note to Nature proposing our structure as a possible model. If by chance it is right, then I suspect we will be making a slight dent into the manner in which DNA can reproduce itself. I prefer this type of model over Pauling's which if true, tells us next to nothing about the essence of DNA reproduction."

A model of the structure resembled a twisted rope ladder. They proposed that the DNA molecule consisted of two spirally wound, helical chains. They demonstrated how genetic information is passed on through DNA in the genes. In 1968, Watson published The Double Helix, a portion of it reads,

"Science seldom proceeds in the straightforward logical manner imagined by outsiders. Instead its steps forward (and backward) are often very human events in which personalities and cultural traditions play major roles."

In 1962, Crick, Watson, and their associate, Maurice Wilkins, were awarded the Nobel Prize for their work. Crick explained their discovery on the day they received the award:

"DNA is a polymer. That is to say it has a regular, repeating backbone with side groups called "˜bases' projecting at regular intervals. However all the bases are not the same, there are four kinds of them and the genetic information is conveyed by the precise order of the different sorts of bases along the DNA. In other words, the genetic message is written in a language of four letters. Incidentally, the total length of the message for man is not short, it is probably more than a thousand million letters long."

In 1968, Watson became director of the molecular-biology lab at Cold Spring Harbor, New York and in 1988 became head of the United States Human Genome Project. In 1977, Crick began brain research at the Salk Institute and is now a professor at the Salk Institute for Biological Studies in LaJolla, California.

As a result of their discovery, scientists have been able to identify that the causes of some illnesses are genetic. Some of the most recent breakthroughs are the use of DNA in crime cases, the determination of blood relatives and the cloning of Dolly the sheep. According to John Maynard Smith, Emeritus Professor of Biology at the University of Sussex,

"To discover the chemical basis of heredity is profoundly important when you bear in mind that the whole not only of evolution but the whole of development, the whole of biology, depends on that property of heredity. To say that you now actually know how it works, is profoundly important."

Nguồn:essortment.com
 
H

hokthoi

bản dịch của bài trên đây
Francis Crick và James Watson, phát hiện ra cấu trúc phân tử DNA. Một trong những khám phá sinh học quan trọng nhất trong thế kỷ 20.

Francis Crick sinh ngày 8 tháng 6 năm 1916 tại Northampton, Anh, trong một gia đình trung lưu. Ông bắt đầu làm thí nghiệm khoa học trong nhà của ông khi ông được mười tuổi. Ông tốt nghiệp với bằng vật lý từ Đại học College London.

James Watson sinh ngày 6 tháng 4 năm 1928 tại Chicago, và ở tuổi 15 ghi danh vào Đại học Chicago và theo học chuyên ngành động vật học. Ông nhận bằng tiến sĩ trong di truyền học từ Đại học Indiana, khi ông được 22 tuổi. Năm 1951, ông tham gia Francis Crick tại Phòng thí nghiệm Cavendish ở Cambridge, Anh. Ông mới chỉ 23 tuổi khi phát hiện lớn nhất của ông đã được thực hiện.

Linus Pauling làm việc trên cấu trúc của sinh học phân tử và liên kết hydro được hình thành cơ sở nghiên cứu Crick và Watson của DNA. Nói về công việc của Pauling, Watson nói,

"Năm 1931, khi ông được 30, Linus Pauling biết ông là nhà hóa học tốt nhất thế giới Mười năm sau đồng nghiệp của ông đã đồng ý.. Đến lúc đó, Bản chất của Bond Hóa chất (1939) đã trên đường trở thành cuốn sách hóa học có ảnh hưởng nhất thế kỷ sinh học lớn nhất của ông đến thành công. 1951 từ đề nghị của ông về lần alpha-xoắn cho các phân tử protein, mà mọi người khác nghĩ là quá lớn và phức tạp để học tập. Sau đó, bất ngờ, ông đánh ra khi ông đề xuất một đáng ngờ, ba chuỗi xoắn cho ADN. Vài tháng sau, ở Cambridge, Anh, Francis Crick và tôi, e ngại rằng Linus có thể dơi một lần nữa, tìm thấy các chuỗi xoắn kép Tại sao Linus không hit này chạy về nhà sẽ không bao giờ được biết.. tôi nhớ nhất Pauling từ 50 năm trước, khi ông tuyên bố rằng không có lực lượng quan trọng, chỉ có liên kết hóa học, cơ sở cho cuộc sống. Nếu không có thông điệp rằng, Crick và tôi không bao giờ có thể thành công. "

Năm 1953, James Watson và Francis Crick khám phá ra cấu trúc phân tử của ADN. Xem nhẹ phát hiện của họ, trong một bức thư cho nhà khoa học Max Delbruck, James Watson đã viết,

"Trong những ngày tiếp theo như vậy, Crick và tôi phải gửi lưu ý đến cấu trúc thiên nhiên đề xuất của chúng tôi như là một mô hình có thể. Nếu tình cờ đó là phải, sau đó tôi nghi ngờ chúng tôi sẽ làm một vết lõm nhẹ vào cách thức mà DNA có thể sinh sản bản thân tôi thích. loại mô hình trên của Pauling mà nếu đúng sự thật, cho chúng ta biết bên cạnh không có gì về bản chất của tái sản xuất DNA. "

Một mô hình của cấu trúc giống như một cái thang dây xoắn. Họ đề xuất rằng các phân tử DNA bao gồm hai spirally vết thương, chuỗi xoắn ốc. Họ đã chứng minh như thế nào thông tin di truyền được truyền qua DNA trong gen. Năm 1968, Watson xuất bản The Double Helix, một phần của nó đọc,

"Khoa học hiếm khi tiền thu được theo cách thức hợp lý đơn giản bởi người ngoài tưởng tượng của nó Thay vì bước về phía trước (và ngược lại) là sự kiện thường rất con người, trong đó nhân cách và truyền thống văn hóa đóng vai trò chính.."

Năm 1962, Crick, Watson, và liên kết của họ, Maurice Wilkins, được trao giải Nobel cho công việc của họ. Crick giải thích khám phá của họ vào ngày họ nhận được giải thưởng:

"DNA là một polymer. Đó là để nói nó có một xương sống, thường xuyên lặp đi lặp lại với các nhóm bên gọi là" ~ căn cứ 'dự định kỳ. Tuy nhiên tất cả các căn cứ là không giống nhau, có bốn loại chúng và thông tin di truyền được truyền đạt bằng thứ tự chính xác của các loại khác nhau của cơ sở cùng DNA. Nói cách khác, các tin nhắn di truyền được viết bằng một ngôn ngữ bốn chữ cái. Ngẫu nhiên, tổng chiều dài của thông điệp cho người đàn ông không phải là ngắn, nó có lẽ là hơn một nghìn triệu lá thư dài. "

Năm 1968, Watson đã trở thành giám đốc của phòng thí nghiệm phân tử sinh học tại Cold Spring Harbor, New York vào năm 1988 và trở thành người đứng đầu của Hoa Kỳ Dự án Gene người. Năm 1977, Crick bắt đầu nghiên cứu não tại Viện Salk và bây giờ là một giáo sư tại Viện Nghiên cứu Sinh học Salk trong LaJolla, California.

Kết quả của khám phá của họ, các nhà khoa học đã có thể xác định rằng nguyên nhân của một số bệnh có di truyền. Một số các đột phá gần đây nhất là việc sử dụng DNA trong các trường hợp tội phạm, việc xác định thân máu và nhân bản vô tính của cừu Dolly. Theo John Maynard Smith, Giáo sư Sinh học tại Đại học Sussex,

"Để khám phá các cơ sở hóa học của di truyền là đặc biệt quan trọng khi bạn nhớ rằng toàn bộ không chỉ của sự tiến hóa nhưng toàn bộ phát triển, toàn bộ sinh học, mà phụ thuộc vào tài sản của di truyền. Để nói rằng bây giờ bạn thực sự biết nó như thế nào công trình, hết sức quan trọng. "
 
A

azuredragonzx

Hehe cảm ơn bạn đã có tấm lòng copy sang google translate =)) Đùa tí thôi, chỗ nào dịch được thì cố gắng dịch đi bạn, đằng nào cũng đã mất công rồi ;))
 
L

linh030294

Baer (1792-1876): Người khai sinh môn phôi học so sánh


Baer (1792-1876)
Karl Ernst von Baer ra đời ngày 29/2/1792, trong một gia đình dòng dõi quý tộc gốc Phổ, tại Piep, thuộc Estonia. Do cậu bé có khá đông anh chị em, tất cả gồm 10 người, nên suốt thời ấu thơ, cậu phải ở với gia đình cô chú. Lúc 7 tuổi, cậu mới được hưởng sự chăm sóc của bố mẹ. Sau thời gian học tại nhà với một gia sư, Karl theo học trong 3 năm ở một trường trung học dành riêng cho giới quý tộc.

Lúc 18 tuổi, chàng thanh niên Karl đến Dorpat (ngày nay có tên gọi là Tartu), một thành phố cảng ở miền Đông Estonia. Anh theo học tại một trường đại học trong 4 năm và nhận bằng tốt nghiệp năm 1814. Không thoả mãn với những điều đã được học, Karl lên đường qua Đức và đến Wurburg, một thành phố ở miền Nam nước Đức. Tại đây, Karl theo học thầy Dollinger (một thầy thuốc người Đức) về môn giải phẫu học so sánh và phôi học. Hai năm 1815 và 1816 là thời gian chàng thanh niên Karl tiếp thu được nhiều nhất. Năm 1817, theo yêu cầu của thầy dạy cũ là Burdach (nhà giải phẫu học và sinh lý học, người Đức, chuyên về hệ thần kinh), Karl đến Konigsberg (ngày nay là Kaliningrad thuộc nước Nga). Và ở nơi này, Karl bắt đầu cuộc đời nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Anh làm trợ lý phẫu tích cho thầy Burdach đồng thời phụ trách khu bảo tàng động vật vừa mới được thành lập.

Suốt thời gian 17 năm, từ năm 1817 đến 1834, ở Đại học Konigsberg, Baer nghiên cứu kỹ sự hình thành của các lá phôi và màng ngoài phôi. Thoạt tiên, ông nghĩ rằng có 4 lá phôi rồi sau đó mới khẳng định có 3 lá phôi và áp dụng những kết quả này vào tất cả các loài có xương sống: lá phôi ngoài tạo nên các tạng (hô hấp, tiêu hóa...) còn lá phôi giữa hình thành nên cơ, xương, đặc biệt ở lá phôi này, về sau ông phát hiện một hình thái mô tả đặc thù của phôi động vật có xương sống: đó là dây sống... Như vậy, Baer là người có nhiều phát hiện quan trọng và đã đặt nền tảng cho ngành phôi học so sánh. Trong thời gian này, Baer làm nhiều phẫu thuật trên chó cái, chính trên loài vật này ông đã phát hiện ra trứng tại các túi nhỏ của buồng trứng. Ông cũng so sánh trứng của động vật có vú với túi mầm của trứng chim. Thoạt tiên, ông công bố phát hiện này trong một bức thư gửi Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg, dần dần khi các thí nghiệm ngày càng nhiều và càng thêm đủ dữ kiện, Baer quyết định biên soạn thành sách. Năm 1827, cuốn sách “Về trứng của loài có vú và nguồn gốc con người” của Baer ra đời gây một tiếng vang lớn: ông phát hiện và mô tả tỉ mỉ trứng của loài có vú. Ông cũng bác bỏ quan niệm sai lệch thời đó cho rằng nang Graaf là trứng khi nhấn mạnh rằng nang Graaf không phải là trứng mà chỉ là nơi chứa trứng thật sự. Đặc biệt, tác giả còn khẳng định rằng tất cả loài có vú kể cả con người đều hình thành và phát triển từ trứng. Baer mạnh mẽ phủ nhận quan điểm phổ biến thời đó cho rằng các phôi của một loài đều trải qua những giai đoạn có thể so sánh với các dạng trưởng thành của loài khác. Thật vậy, ông nhấn mạnh rằng các phôi của một loài có thể giống phôi, chứ không thể giống dạng trưởng thành của một loài khác, hơn nữa, phôi càng nhỏ thì sự giống nhau càng rõ rệt. Ông cũng ghi nhận rằng quá trình phát triển luôn được tiến hành từ đơn giản đến phức tạp, từ thuần nhất (đơn dạng) đến không đồng nhất (đa dạng). Như vậy, chính Baer là người đã sáng tạo và xác định rõ nội dung của luận thuyết thượng tạo (epigenesis).

Năm 1828, một tác phẩm quan trọng của Baer ra đời: đó là bộ sách lớn “Lịch sử phát triển của các động vật” (tập 1). Lúc này danh tiếng Baer vang dội khắp châu Âu. Ông được bầu làm Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Baer vẫn miệt mài làm việc suốt chín năm ròng rã và năm 1837, tập 2 của bộ sách lớn đến tay bạn đọc. Có thể coi đây là tài liệu tổng kết tất cả những hiểu biết khoa học về sự phát triển của loài có xương sống, đồng thời ghi nhận những phát hiện đóng góp to lớn của Baer. Bộ sách đem đến cho người đọc những hiểu biết hoàn toàn mới lạ và rất cơ bản. Baer khẳng định thêm một lần nữa về sự phát triển của trứng: Tế bào sinh dục này tạo nên các lá mầm, từ đây hình thành ra các tạng khác nhau của phôi. Ông là người đầu tiên ghi nhận các bản thần kinh chính là nghiên cứu đầu tiên của ông về hệ thần kinh, là người mô tả 5 bọng não nguyên thủy và phát hiện ra dây sống (notochord). Đây là một dải mô đặc biệt, hiện diện ở chiều dọc dài của lưng và chỉ ở động vật dạng cá nguyên thuỷ mới tồn tại suốt đời. Ở động vật có xương sống, dây sống được thay thế rất sớm bằng cột sống, bao gồm các đốt sống. Điều này cũng chứng minh rằng tất cả các động vật có xương sống đều xuất nguồn chung từ một tổ tiên nguyên thủy có dây sống.

Trong bộ sách lớn “Lịch sử phát triển của các động vật” Baer còn giới thiệu một khái niệm hoàn toàn mới lạ với giới khoa học thời đó, bao gồm bốn định luật:

1. Trong quá trình phát triển, các đặc tính chung xuất hiện trước các đặc tính riêng.

2. Các đặc tính chung xuất hiện trước đặc tính kém chung rồi tiếp đó mới phát triển các đặc tính riêng.

3. Trong quá trình phát triển, một loài nhất định càng tách xa các động vật thuộc những loài khác.

4. Trong quá trình phát triển, các loài cấp cao đều trải qua những trạng thái phôi gợi nhớ đến phôi của các động vật cấp thấp.

Dựa trên các định luật do chính ông đề xuất, Baer đã nghiên cứu rất kỹ và mô tả chi tiết sự phát triển của trứng được thụ tinh: ở mọi loài có xương sống, trứng được thụ tinh, trong giai đoạn rất sớm, đã có những biến đổi để hình thành nên các lớp mầm, từ đây sẽ biệt hóa dần dần để trở thành các tạng khác nhau của cơ thể.

Ông đã đưa ra “định luật các giai đoạn tương ứng” để xác định quá trình phát triển của các phôi loài động vật có vú. Ông đã chứng minh sự giống nhau của các giai đoạn phôi ở những giống khác nhau. Ông viết “Tôi hoàn toàn không thể nói chúng thuộc giống nào. Chúng có thể là thằn lằn, hoặc chim nhỏ, hoặc là động vật có vú còn rất nhỏ tuổi, vì sự giống nhau là hoàn toàn trong phương thức hình thành cái đầu và thân thể ở các động vật đó. Các chi vẫn chưa có, nhưng ngay cả khi các chi đã hiện diện trong giai đoạn sớm nhất của quá trình phát triển, chúng ta cũng không biết được gì, vì tất cả đều xuất nguồn từ hình thái cơ sở như nhau”. Bộ sách lớn của Baer đã củng cố tính thống nhất của các động vật. Như thế, tế bào trứng đã thụ tinh của người, hươu cao cổ và cá thu đều không khác nhau lắm. Chỉ khi phôi đã phát triển, dần dần mới xuất hiện những đặc điểm khác biệt. Những cấu trúc nhỏ bé nhất của phôi, trong trường hợp này, sẽ chuyển dạng thành cánh hoặc thành tay (chi trên), ở trường hợp thứ hai sẽ thành chi dưới và ở trường hợp thứ ba lại thành vây (cá). Chính trong bộ sách lớn của mình, Baer đã nêu những câu hỏi làm thay đổi tư duy khoa học thời đó: “Ở giai đoạn khởi đầu của quá trình phát triển, chẳng phải là tất cả các động vật đều cơ bản giống nhau ư? Chẳng phải là đã có một hình thái nguyên thủy chung cho tất cả các loài đó sao?”. Những quan điểm này đã thúc đẩy những nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thời đó, như T.H. Huxley và Hebert Spencer.

Năm 1834, nhà khoa học Baer 42 tuổi nhận lời mời của Hoàng hậu nước Nga, rời Konigsberg đến Saint Petersburg. Thời gian đầu, Baer phụ trách phòng tài liệu của Viện Hàn lâm Khoa học Saint Peterburg. Kể từ đây, Baer ngưng các hoạt động nghiên cứu phôi học để chuyển sang công việc đi khảo sát vùng Bắc Nga. Ông là nhà khoa học đầu tiên đã đến thu thập các mẫu vật ở vùng đất mới lúc đó chưa hề có vết chân người. Trong những chuyến đi xuyên nước Nga, ông đặc biệt chú ý đến nghề cá thuộc vùng Baltic và Caspian. Ông có nhiều phát hiện lý thú về địa lý Nga, về quá trình hình thành các dòng sông trên đất nước Nga. Kết quả của những chuyến đi khảo sát là cuốn sách “Sự phát triển của cá” (1835). Ông cũng chú ý đến các vấn đề dân tộc học, thu thập cho Viện Hàn lâm Saint Petersburg rất nhìều mẫu sọ người. Sau một thời gian đo đạc các mẫu sọ và phát hiện nhiều điều mới lạ, ông tổ chức Hội nghị các nhà sọ học ở Đức, vào năm 1861. Kết quả là việc hình thành Hội các nhà sọ học Đức và xuất bản Tạp chí Nhân loại học. Sau khi thành lập Hội Địa lý học Nga và Hội Côn trùng học Nga, ông được bầu vào chức vụ Chủ tịch đầu tiên. Năm 1862, vì lý do sức khỏe, ông thôi chức viện sĩ hoạt động mà chỉ tham gia trên cương vị viện sĩ danh dự. Một trong những tác phẩm cuối của Baer là tập sách tiểu sử tự thuật xuất bản năm 1864, khi ông tròn 72 tuổi. Từ năm 1867, ông trở về quê hương Estonia để nhớ lại thời thơ ấu và sống 9 năm cuối cuộc đời. Baer qua đời ngày 28/11/1876, hưởng thọ 84 tuổi.
 
L

linh030294

Phần tiếp :
Lúc vừa 16 tuổi, Robert đến Đại học Edinburgh theo học y khoa. Sau 5 năm học tập, chàng thanh niên Robert 21 tuổi gia nhập quân đội Anh với cương vị trợ lý phẫu thuật viên. Theo các bạn đồng ngũ, anh đến đồn trú ở Ireland. Suốt 5 năm, ngoài công việc chuyên môn, Robert thường tìm hiểu và sưu tập các loại cây cỏ hiếm lạ.

Năm 1798, nhân dịp đến thăm Luân Đôn, anh có dịp quan biết ngài Banks (1), Chủ tịch Hội Hoàng gia. Nghe nói ông này có 1 bộ sưu tập mẫu cây cỏ hiếm lạ nhất nước Anh, Robert đã ngỏ lời muốn ghé thăm và được ngài Banks chấpthuận.

Sẵn niềm ham mê tìm hiểu các loài cây cỏ nên trong nhiều tuần lễ, Robert luôn có mặt ở phòng mẫu cây của ngài Banks. Trong những buổi chuyện trò với ngài Banks, anh được biết ngài đã cùng thuyền trưởng James Cook thực hiện nhiều chuyến đi khảo sát trên con thuyền “Gắng sức” (Endeavour).

Ngày 18/7/1801, được sự giới thiệu của ngài Banks, nhà khoa học trẻ tuổi Brown hồ hởi bước lên con tàu “Người thám hiểm” bắt đầu cuộc hành trình dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Flinders. Ngày 8/12/1801, tàu cập bến tại Eo Vua George, ở bờ Tây nước úc. Brown rất ngạc nhiên và sung sướng khi nhìn thấy thảm thực vật của vùng đất mới thật phong phú. Trong khi chiếc tàu chạy vòng quanh bờ biển nước úc để thực hiện những khảo cứu hải dương học. Suốt 4 năm trời, Brown lang thang khắp đó đây. Anh mải mê quan sát, ghi chép và thu thập các mẫu cây cỏ mới lạ. Cùng tham gia những chuyến khảo sát, có Bauer (2). Cũng may mắn cho Brown là dịp học hỏi ở khu vườn mẫu của ngài Banks, anh đã có đầy đủ kiến thức thực vật học. Sau này Ferdinand Bauer đã vẽ minh họa thật đẹp bộ sưu tập.

Ngày 13/10/1805, anh trở lại nước Anh và bắt tay ngay vào công việc sắp xếp phân loại bộ sưu tập gồm khoảng 3900 loài. Sau 5 năm nghiên cứu, tìm đọc các tài liệu rồi so sánh các mẫu vật, cuốn sách “Thảm thực vật ở Tân Hà Lan” (1810) ra đời gây ngạc nhiên cho giới khoa học vì tài quan sát tinh tường và văn phong rành mạch của nhà thực vật học Brown vừa tròn 38 tuổi. Do ở thời đó, người ta chưa chú ý nhiều đến các cây cỏ, nên mặc dù những ghi chép từ nước úc rất phong phú, ông cũng chỉ cho xuất bản một tập. Sau khi đọc cuốn sách, thêm một lần nữa, ngài Banks phát hiện tài năng của Brown nên đã mời nhà khoa học trẻ tuổi đến phụ trách khu vườn mẫu và cả thư viện quý giá của ngài, sau này ngài Banks đã ghi trong di chúc cho phép Brown toàn quyền sử dụng khu vườn mẫu và thư viện riêng của ngài. Từ năm 1825, liên tục suốt trong gần mười năm, các tác phẩm của Brown được xuất bản bằng tiếng Đức.

Năm 1827, Brown được mời đến làm việc ở Viện Bảo tàng Anh, đồng thời phụ trách khoa thực vật vừa mới được thành lập và mang tên Banks, lúc này ông đã 54 tuổi. Năm sau, giới khoa học lại ngạc nhiên khi đọc cuốn sách “Những nhận xét vi thể (1827) của Brown, trong đó, tác giả ghi nhận đã quan sát thấy những mảnh nhỏ chuyển động ở bên trong những hạt phấn hoa sống của giống Clarkia pulchella. Sau đó, khi tiếp tục quan sát thêm nhiều hạt phấn hoa cả sống lẫn chết của nhiều loại cây khác nhau, lần nào Brown cũng nhận thấy có hiện tượng chuyển động những mảnh nhỏ của chất dịch (về sau mới biết là dịch dạng keo). Sau phát hiện của Brown, nhiều nhà khoa học cũng nghiên cứu và đều xác nhận đúng như vậy. Hiện tượng này, về sau được gọi là chuyển động Brown. Trong suốt quá trình nghiên cứu và phân loại các cây cỏ, Brown không chỉ thể hiện tài năng mô tả, quan sát tinh tế mà còn biểu hiện rõ thái độ thận trọng, trung thực. Một lần sưu tập được một loại hoa rất đẹp, có đường kính tới 1m, khi khảo cứu tài liệu, ông biết rằng loại này, trước đây đã được một nhà khoa học trẻ tuổi tên là Arnold ghi nhận lần đầu tiên ở đảo Sumatra, thuộc Indonesia, cùng với một người bạn tên là Raflord. Vì vậy, trong bảng phân loại, ông đã đặt tên loài hoa đó là Rafloleza arnoldi.

Năm 1831, trong khi đang tiến hành những thử nghiệm với hai giống Orchidacea và Asclepiadaceae, với tài năng quan sát tinh tế vốn có, Brown lại ghi nhận và mô tả một hình thái đặc biệt, hiện diện bên trong tế bào mà chưa ai nói tới: nhân của tế bào. Leeuwenhoek có lẽ đã nhìn thấy nhân của hồng cầu cá và Franz Bauer có lẽ đã vẽ nhân tế bào để minh họa một mẫu vật của John Hunter. Nhưng việc phát hiện ra nhân tế bào chẳng làm ai chú ý cho tới 7 năm sau, khi Schleiden và Schwann công bố luận thuyết tế bào (1838).

Là một nhà thực vật học tài năng, Brown đã đi vào lịch sử sinh học khi phát hiện ra chuyển động (mang tên ông) và nhân tế bào. Ông còn có nhiều đóng góp vào việc phân loại thực vật học, mở rộng hiểu biết và hoạt động giới tính ở các loài cây cấp cao. Ông là người đầu tiên phân biệt những cây hạt trần (gymnosperm) với những cây hạt kín (angiosperm) và cũng là một trong số những người mở đường cho ngành cổ thực vật học (Paleobotany)(1851).

Brown qua đời tại Luân Đôn ngày 10/6/1858, hưởng thọ 85 tuổi.

-------------------------------------------

 
Top Bottom