[Sách] Giáp Ranh - tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Kim Cuông

I

iloveyou247_tintin

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

GIÁP RANH
Tác giả : Đỗ Kim Cuông
NXB : Quân đội nhân dân.
Năm XB: 1996
số hóa : BloodX


Phần I

" Quá khứ luôn luôn ở bên ta, cho dẫu ta cố tình lảng tránh. Và nếu không soi rọi cho rõ ràng quá khứ thì sẽ khôgn có gì bảo đảm không gặp lại sai lầm trong tương lai".
Ơ.YUĐIN

MỘT
Trận mưa đêm như trút nước vẫn còn để lại trên cánh rừng nhiều dấu vét.
Con suối đá sau kỳ nắng hạn bị vắt kiệt khô, chỉ một đêm bỗng sinh ồn ã. Nước từ trên sườn đồi dồn xuống suối chảy cuồn cuộn, đủ sức cuốc trôi đi lá khô, cành củi mục tấp xuống lòng suối lâu ngày. Ở những thác đá tiếng nước đổ ào ào.

Lũ chão chuộc suốt cả mùa hè nắng gắt chui lủi sâu trong các hang hốc, kẹt đá để trốn cái nòng bức, ngột ngạt sáng nay được dịp tuồn ra ngời cửa hang ngồi chễm chệ trên các tảng đá , cất tiếng kêu đĩnh đạc:
- Chuô ... uộc. Chuô ... uộc...
Vợ chồng chị ễnh ương bám tren cọng cây môn nước, giương đôi mắt xanh biếc ngắm bóng mình và bóng tán lá in dưới lòng khe, cũng chẳng chịu thua.
- Oạp ... Oạp ... Oạp !
Xao động hơn vẫn là tiếng chim họa mi hót véo von trên những tầng lá xanh rì. Cây cối tự như được rửa mặ́t, tiếp thêm nhựa sống bù đắp cho những ngày dài quắt queo say nắng vì ngọn gió tây khô xác. Bầy chim vừa hót ca, vừa tranh nhau ăn trái cây rừng. Dâu mọc thành chùm vàng rộm treo lúc lỉu trên cành cây cao. Những trái chín, vỏ tách ra thành bốn múi rơi lả tả xuống vạt đất quanh gốc và rơi xuống cả lưng áo của những người lính giải phóng.
Họ ngồi im và chờ đơi. Giỏng tai lên nghe âm thanh rộn rã của cánh rừng ban mai yên ả và cũng đầy bí ẩn giấu sau màn cây xanh kia.
Đơn vị bộ đội năm phục kích địch được trải dài hơn một trăm mét, chia ra thành bốn cụm chính ẩn kín đáo trong rừng cây, tạo thế bố trí theo hình cánh cung bao quanh lấy bãi ngụy. Mảnh đất rộng lọt thỏm giữa rừng cây trống trải, chi chít các hố công sự hình tròn, hình chữ nhật. Có những căn hầm được tụi lính ngụy chặt cây, lấp đất phủ chỉ còn chừa ra một cửa hầm chui lọt thân người, liên kề đấy l à bệ đất lấy hướng xạ kích ra xung quanh.
Nhác trong toàn bộ khu vực bãi đóng quân rộng rinh, tưởng địch trú đêm, hoặc nghỉe lại một hai ngày giữa ừng trong những chuyến đi càn, chúng ăn ở tự do, tùy thích. Nhưng không phải. Ba trung đội chia làm ba góc theo một tam giác đều, hoặc một tam giác cân. Mỗi trung đội lại cho lính đào hầm hào, theo hình bán nguyệt. Ban chỉ huye đại đội nằm ở giữa trong đội hình của đơn vị mình.
Với cách cấu trúc như vậy, hỏa lực và xung lực của địch dư sức đánh trả những trận tập kích bất ngờ của bộ đội, nếu lực lượng đối phương yếu hơn và không biết cách cắt mảng ra tiêu diệt.
Công sự tụi ngụy đào thường nông choèn nhưng chúng lại khôn ngoan tận dụng những thân cây đổ , hốc cây to giấu chiếu hầm cá nhân bé tí tẹo của mình trong đó. Vả lại tụi lính ở lớp bên trong còn ỉ vào các chốt tiền tiêu nằm xa chừng vài chục mét, trấn giữ những nèo đường mòn dẫn vào khu vực đóng quân của đại đội lính ngụy...
Những người lính giải phóng vẫn nằm im và chờ đợi. Tiếng là khô rơi xào xạc , và tiếng cành cây gãy do một chú sóc nhảy vô tình cũng không lọt ra khỏi vòng kiểm soát chặt chẽ của họ.
Sự chờ đợi bị kéo căng ra như một sợi dây đàn. Mặt trời kéo lên cao quá bụi mây ở đầu bãi nguỵ phía đông. Nắng rải vàng trên vùng đất trống trải. Đại đội bộ binh đến địa điểm bãi ngụy từ lúc trời chưa sáng rõ mặt người. Họ chuẩn bị công sự gấp rút cho một trận đánh phục kích. Năm khẩu B.40 và B.41, hai mươi nhăm khẩu AK đều hướng điểm xạ vào bãi nguye. Bao giờ những chiếc mũ đồng và những bộ quần áo xanh xám sẽ xuất hiện?
Bất chợt một người chiến sĩ húng hắng ho khan. Nhưng lập tức anh ta bị ngay người ngồi bên cạnh dúi đầu xuống hố cá nhân. Đây đó phóng tới chỗ vừa phát ra tiếng ho những cái nhìn thiếu thiện cảm. Ánh mắt của trung đội trương Tông long lên sòng sọc, gương mặt rỗ hoa của anh bỗng ửng đỏ.
- Đồ chết dẫm ... - Tông làu bầu trong cổ họng.
Lại một tiếng động nữa phát ra. Cậu Mai giữ khẩu B.40 vô ý để quả đạn chạm vào súng.
- Chà, mần chi rứa bay !
Phong không kìm được bật kêu lên. Anh bước ra khỏi công sự, đi tới chỗ Tông.
- Sao chưa nghe ngóng gì anh Phong? - Tông hỏi đại đội trưởng.
- Chưa ! Trinh sát bám đã về đầu... Nhắc anh em đừng nhộn nhao.
- Tôi sợ tụi này đi đường khác...
Phong không trả lời Tông. Ánh mắt anh hướng ra ngoài trảng nắng chói chang. Nắng đã gắt. Những chiếc bao cát tấp lên mặt hào, hơi nước bốc lên la đà. Từ một đầu bãi ngụy xuất hiện hai người. Họ mặc áo vài xanh Tô Châu, tay xắn cao, quần đùi, AK báng gấp treo trước ngực.
- Thằng Xu, thằng Nghi về kìa ! - Phong nói và bước nhanh lại chỗ Nhàn.
Nhàn là tiểu đoàn phó, tham gia chỉ huy trận đánh của đại đội 1 bữa nay, đang ở bên công sự sau ụ mối lớn cạnh một gốc cây to. Nhàn đứng chống nạnh, khẩu K59 đeo trễ bên hông. Anh nheo mắt dõi theo hai người trinh sát đang chạy men theo bãi nguỵen lại chỗ họ đang đứng chờ. Nhàn có khổ người thấp, to ngang. Kỳ này chẳng biết tay thợ cắt tóc nào của tiểu đoạn bộ đã tỉa cho anh cái đầu bốc, cạo trắng gáy. Chỉ còn để lại một chóm tóc phía trên, thành thử đầu của anh đã dài trong lại càng nhọn. Nhàn đội chiếc mũ vài mềm có ngôi sao nửa xanh nửa đỏ. Tay xắn cao, mặc chiếc quần đùi may bằng vài xanh pha ni-lông. Bắp chân, bắp tay mập mạp, ngắn ngủn. Anh gốc người Nam Định, vốn trước kia là đại đội trưởng C1, lên cán bộ tiểu đoàn đã gần được một năm, nhưng thường bám trụ vùng giáp ranh với đại đội 1 vừa trực tiếp chỉ huy tác chiến, vừa lo việc mua cơm gạo ở vùng đồng bằng cung cấp cho tiểu đoạn bồ và đại đội hỏa lực., đóng ở vùng địa đạo nam sông Bồ.
- Báo cáo thủ trưởng... - Xu lột chiếc mũ tai bèo lau mồ hôi trên mặt - Tụi lính ngụy bắt đầu dỡ bạt, nấu cơm sáng.
- Đi muộn vậy cơ à ? Tổ cậu Bảo vẫn tiếp tục bám hử? - Nhàn hỏi người trinh sát.
- Dạ.
- Hai đứa đã ăn sáng chưa?
- Rồi ạ! - Xu đáp.
- Thôi thế này nghe. Tổ cửa cậu quay trở lại bắt liên lạc với Bảo, Xu ạ... Chừng nào, địch bắt đầu di chuyển cho ngày người về báo... Nếu địch di chuyển hướng hành quân ra ngả đường 12, cậu cho một tổ bám theo... Phải không Phong nhỉ? - Nhàn quay sang bảo Phong - Cho mấy đứa ăn cơm đi thôi, Phong. Ta còn rảnh rang chừng hai giờ đồng hồ nữa.... Cậu nên cho một tổ ra bám vạt nhà cháy ở ngã bà Hương Trà đề phòng địch trên Chóp Nón tụt xuống hợp điểm ở đây.
- Vẫn một đại đội như bữa qua, phải không Xu? - Phong hỏi.
- Dạ, vẫn chừng nớ. Tụi E.54 anh Phong. Thằng đại trường già khọm.
- Sao mi biết.
- Nó ra *** chỗ em nằm ém có một bụi giang chớ mấy.
- Bay coi chừng đó - Anh Nhàn dọa - Để địch nghi ngờ chuồn hướng khác là tao phạt mấy thằng trinh sát.
- Thủ trưởng khỏi lo! - Xu cười toe toét - thôi tụi em đi đây.
Xu chụp cái mũ vải lên đầu, xốc khẩu AK. Cậu ta bình thản bứt con vắt đang cong người bò lên quai dép vất xuống đất.
Nhàn ngồi ngả người trên tấm ni-lông gấp tư, dựa lựng sau gò mối. Cơ thể anh dường như được thư giãn sau một khoảng thời gian chờ đợi căng thẳng. Ăn vài muỗng cơm với Phong, anh thấy mồm miệng đắng ngắt, bỏ đứng dậy. Mối lo và cả sự hồi họp cho một trận đánh có phần nào khiến anh không yên tâm:
- Ăn chút nứa chớ, anh Nhàn - Phong ép.
- Các cậu ăn đi.
Nhìn những hạt lạc trộn lẫn trong cơm, Nhàn phát ớn. Cơm độn lạc, ăn với muối lạc. Thậm chí đến món canh của nhà bếp bưng lên mỗi bữa sáng cũng là canh lạc nấu với dầu xà lách.
Hơn nửa tháng nay, đường về đồng bằng thông suốt. Đêm đêm, lực lượng của huyện và các xã cùng phối hợp với bộ đội C1, C3 đi đồng bằng. Đang mùa giỡ lạc. Trong sân nhà dân lạc vỏ chất chồng. Bốn trăm tám1 một thùng lạc vỏ. chỉ cần vào ấp không gặp địch, bộ đội tha hồ gùi. Gùi lạc trông thì to, lồng cồng nhưng đến khi lột vỏ, chẳng được bao lăm. Gạo mùa này it. Có lạc ăn cũng tốt. Lạc ăn độn cơm them tỷ lệ, một lon gạo, nửa lon lạc. Tạm qua đi những ngày đói khổ, đói sở trong suốt tháng hai, tháng ba, tháng tư giữa lúc địch càn dữ vùng ranh để xây dựng căn cứ Hòn Vượn, Chóp Nón, Am Cây Sen, điểm cao 367 bên kia sông Bồ tạo lập tuyến hành lang bao gồm một hệ thống cứ điểm mạnh giữ vùng bắc Huế.
Gương mặt, da dẻ của những người lính có chút gạo, chút mỡ đã tươi tắn trở lại. Sốt rét là chuyện thường tình đối với chiến trường. Ai đã trụ bám qua mùa mưa và trận sốt rét ban đầu coi như nhận chứng chỉ của người lính chiến trường. Cơn sốt đến rồi đi tựa như những trận gông đầu mùa hạ. Ngoại trừ trường hợp ác tính bị mất sức mới chịu đưa ra tuyến sau điều trị. Còn không , phương châm chiến lược về con người ở vùng giáp ranh là trụ bám tới cùng. Nó vừa biểu hiện ý thức tự giác trong mỗi chiến sĩ cán bộ tiểu đoạn 10 , vừa là quân lệnh, biến thành nghị quyết của đảng bộ. Mỗi một chiến sĩ chiến đấu ở truyến trước, chửa chủ lực, nửa địa phương, đã thông thạo đồng đất vùng giáp ranh, và đường về các xóm ấp đồng bằng không phải dễ kiếm như cây trên rừng. Đành răng, ai chả biết trên trục đường giao liên Trường Sơn, quân đi như nước chảy từ Bắc vào Nam. Nhưng con đường rẽ để đưa họ vào vị trí chiến đấu chia thành hàng trăm nhanh nhỏ. Đâu cũng cần tới sức người. Và đâu cũng quan trọng. Thành thử , để có được một anh bộ đội biết mặc quẩn đùi , đi dép, đầu trần, cơm gạo ăn mỗi bứa phải tính bằng một phần mấy của loong ( mỗi loong là hai lạng rưỡi ), ăn được môn vót, môn thục và ứng chiến được hàng chục kiểu đánh với tụi lính ngụy, là một tài sản quý cho những đơn vị trụ bám vùng giáp ranh. Sau tháng, những anh bộ đội tân binh được huấn luyện ở hậu phương miền Bắc nếu đem so sánh đối chiếu giữa bài bản trường lớp và thực tế của chiến trường chỉ còn là câu chuyện đáng buồn cười cho những anh cán bộ khung huấn luyện. Nếp sinh hoạt của những người lính sống ở vùng giáp ranh buộc họ phải tuân thủ theo một quy định riêng, khác với những người lính quen sống trong các trung đoàn, sư đoạn chủ lực. Lính giáp ranh phải quen với môi trường mới, tạo ra một cách sống mới. Địch ở cách anh có vài ba trăm mét, hãy coi chừng ! Hãy nhìn những người lính cũ làm và bắt chước mau lẹ. Anh vô ý gây ồn nơi hậu cứ ư? Những quả pháo điểm, cối điểm sẽ nhắc thay cho cán bộ. Và chỉ vài phút sau pháo cối đã dọn sẵn tọa độ nện thẳng vào đấy.
Những người lính địa phương trụ bám vung giáp ranh liên tục bị tiêu hao. Bộ đội tân binh của Quân khu bổ sung nhỏ giọt. Những gương mặt chiến sĩ mới nhận về, chỉ sau vài chuyến xuống đồng bằng, tham gia một hai trận đánh họ đã trở nhành những anh lính cựu. Cả một tiểu đoạn chỉ có chừng hơn một trăm ba chục tay súng. Đến ngay như đại đội 1, đơn vị chủ công của tiểu đoàn, huy động và trận đánh phục kích này cũng chỉ còn hơn ba chục tay súng.
Nhàn ngồi vấn thuốc hút và nhìn từng gương mặt của cácn bộ, chiến sĩ. Hai ba người cụm lại thành từng nhóm tranh thủ ăn phần cơm bọc trong những túi ni-lông.
Trong mối quan hệ với chiến sĩ đại đội 1, Nhàn thân quen quá. Trừ vài chục tân binh mới được đưa về đầu năm, còn hầu hết anh em không mấy ai kêu anh bằng "thủ trưởng". Chính Nhàn cũng có cảm giác lạ tại, khó chịu khi các cậu tân binh gọi anh bằng cái tên ấy. Khi vui, anh kêu "mi" , "tao" với chiến sĩ. Có lẽ cũng bởi trong cuộc sống của người lính luôn đối đầu với những trận chiến đấu, với cái đói khổ, bệnh hoạn đã xóa bớt đi phần nào sự cách bức về cương vị, cấp bậc. Nhưng điều này, thì Nhàn không thể chệ được họ: sự chấp hành mệnh lệnh. Công việc đang bàn, mặc sức cãi nhau, tranh luận. Nhưng một khi đã trở thành phương án tác chiến thì dù có phải đánh đổi bằng mạng sống, họ vẫn cứ chấp hành...
 
Last edited by a moderator:
I

iloveyou247_tintin

Mới ngày nào Nhàn đi nhận quân ở A Vao: Toàn, Bảo, Đổng, Chí mới chỉ là lứa tân binh nhập ngũ chưa đầy hai tháng đã vào Nam để tham gia đánh Mậu Thân 1968. Đợt quân ấy mất vãn, và bây giờ họ đã là những cán bộ trung đội, tiểu đội.
Mới đây, ban chỉ huy tiểu đoàn đã họp. Thực ra chỉ có hai người: Nhàn và ông Triều, tiểu đoàn trưởng. Hai cán bộ chính trị của tiểu đoàn đang ở trên Hang Đá, bên kia sông Bồ tổ chức cho đại đội 2 và đại đội 4, gùi gạo, đạn. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định cho đại đội 1 tổ chức đánh trận phục kích này với mục đích kéo trung đoàn 54 ngụy lên càn rừng nhiều hơn nữa. Như vậy, cửa rừng buộc địch phải dãn quân, đại đội 3 và lực lượng vũ trang của huyện có cơ hội về đồng bằng mua gạo cơm và đánh tụi bảo an. Mùa mưa sắp tới rồi. Cần phải có một lượng gạo dự trữ. Nhàn cùng với Phong – đại đội trưởng đại đội 1 đưa trinh sát và cán bộ trung đội đi chuẩn bị địa hình.
Cán bộ, chiến sỹ đại đội 1 nghe tin đánh lớn, ai cũng hào hứng phấn khởi. Lâu nay chỉ đánh đấm lẹt xẹt. Hoặc giả những trận đánh dưới đồng bằng lại diễn ra trong đêm tối. Ít khi thắng giòn giã, tụi lính bảo an, dân vệ chỉ mới nổ mìn, chạm súng, thấy B.40, B.41 nổ váng óc, xòe lửa biết ngay gặp bộ đội K.10 đã ù té hùa nhau bỏ chạy. Tiêu diệt dăm bảy tên bảo an chẳng bõ bèn. Pháo địch quây giữa đồng, bắng chặn và y như rằng ngày hôm sau cửa rừng về đồng bằng tắc nghẽn. Những trận đánh trên rừng là cần thiết.
Nhưng Nhàn không dám hé ra một điều. Lộ ra anh sẽ phải chịu kỷ luật. Thân thiết với Phong và Hảo – hai cán bộ cấp trưởng của đại đội, Nhàn cũng đành ngậm tăm. Không bao lâu nữa, cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn 10 sẽ bổ sung lực lượng cho huyện và xã. Tiểu đoàn 6 hoạt động bên Phong Quảng cũng xóa phiên hiệu để tăng cường người cho hai huyện. “Tin mật” ! Ông Triều và ông Đang – chính trị viên tiểu đoàn – nhận điện ngồi ngẩn ngơ trong hầm cơ yếu một hồi lâu, nhìn nhau ứa nước mắt.
KHông ai tin được một tiểu đoàn có mặt sớm, đánh ngụy , rồi đánh Mỹ trên một dải đất dài rộng của sáu huyện Thừa Thiên, địch chạm mặt đã ngán, bây giờ không còn phiên hiệu nữa.
Cả bốn cán bộ cao nhất của tiểu đoàn còn chưa tin chuyện giải thể K.10 về địa phương là thật. Tiếp theo là sự bất mãn, bực bội. Ông Triều và ông Đang cùng với tổ trinh sát vượt đường 12 về trung đoàn. Họ chỉ nhận được một câu trả lời: Đây là lệnh của Tư lệnh Quân khu. Hai người ở lại quán triệt nghị quyết thêm nửa tháng mới về. Không còn hồ nghi gì thêm nữa. Tăng cường bộ đội chủ lực cho tuyến huyện, xã đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách để vùng giáp ranh khả dĩ còn có chỗ đứng chân.
Cuộc tổng tiến công vào mùa xuân năm 1968, các đơn vị địa phương hao hụt quân số quá lớn. Việc rút trực tiếp thanh niên đồng bằng để bổ sung cho đội công tác xã và đội biệt động huyện trở nên khó khăn. Địch cũng tăng cường đôn quân, bắt lính, tìm mọi phương cách giữ thanh niên. Những đợt vũ trang tuyên truyền về đồng bằng của lực lượng cách mạng không dễ. Tổ chức các mũi quân như một trận đánh. Nếu không chạm địch, vào được làng cũng chỉ làm việc với cơ sở và đồng bào không quá ba tiếng để còn kịp gùi cõng gạo cơm lên rừng, sợ trời sáng. Và không phải đêm nào cũng về được dân. Một trăm tám mươi phút không đủ sức thuyết phục đám thanh niên cũng như các bậc cha mẹ dù họ có cảm tình với cách mạng, có người thân tham gia cách mạng, đi tập kết ở miền Bắc. Vả lại, nỗi hoảng sợ địch trả thù sau cơn sốt Mậu Thân vẫn còn ám ảnh nặng nề.
Lực lượng thanh nhiên đồng bằng đưa lên nhỏ giọt không đủ cấy vào số du kích xã, biệt động huyện, cơ quan huyện ủy, huyện đội, kinh tài huyện, đường dây…bị hi sinh trong những chuyến đi công tác và đánh địch ở đồng bằng.
Người – vẫn là con người tiếp sức nuôi sống cho cuộc chiến đấu. Và chắc chắn không có một người chiến sỹ miền Bắc nào khi cất lời thề, tuyên thệ dưới cờ để lên đường vào Nam, anh ta biết trước rằng, một ngày kia, mình sẽ trở thành anh du kích xã… Nhưng họ là người lính và chiến trường đang gọi.
Ngay Nhàn cũng cho rằng: Công việc của huyện xã, lực lượng của huyện, xã sẽ do người địa phương đảm trách. Mắc mớ chi tới mấy anh lính chủ lực?
Nhưng mệnh lênh là mệnh lệnh ! Ông Triều bảo vậy. Còn thắc mắc nay mai sẽ có phái viên của tỉnh về tổ chức học tập nghị quyết của khu ủy, tỉnh ủy.
“ – Đến tôi học cả nửa tháng mà chưa thông, ông Nhàn ạ. – Giọng ông Triều lộ rõ vẻ cáu kỉnh – Mấy ông biểu, lực lượng của chúng ta từ Quân khu xuống tới các xã bây chừ tựa như hình cái nón dựng ngược. Chủ lực miền, chủ lực khu, các trung đoàn, sư đoàn thì mạnh. Xuống đến tỉnh, huyện, lực lượng nhỏ lại và xuống đến cấp xã lực lượng teo tóp thành cái chóp nón. Nhỏ xíu. Tôi điên tiết, nổi khùng: “-Răng các ông không đưa quân đánh sấn về như kỳ Mậu Thân ấy? ”.
Trung đoàn trưởng vỗ vai mình:
- Cậu đẻ ra lính hả ? Đẻ được ra súng đạn hả ?
- Rứa sinh ra cấp “côi” để mần chi ?
- Cậu quên rằng mình đang phải đối đầu với già nửa triệu quân Mỹ và chư hầu. Và chừng ấy nữa lính ngụy.
- Hừ… Nhàn ơi ! Mình không thể nào tin nổi điều đó, anh Triều ạ… Chỉ có đánh thôi. Đánh để cho trung đoàn, cho Quân khu biết rằng K.10 vẫn là một quả đấm mạnh của vùng cánh bắc Huế.
Và Nhàn đã nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy trận đánh phục kích với đại đội 1.
Biết đâu, đây chẳng là trận đánh cuối cùng của anh chia tay những người cán bộ, chiến sĩ của đại đội chủ công; nơi anh đã từng gắn bó máu thịt với họ trong những ngày đánh địch ở Phú Vang, ở trong lòng nội đô Huế hơn một năm về trước ?

Phong vẫn chưa an tâm. Anh cho mời hai trung đội trưởng và tiểu đội trưởng súng cối thống nhất lại phương án đánh đich.
Không ai có ý kiến gì. Bở từ sáng đến giờ, thời gian đủ để cho họ mường tượng ra diễn tiến của trận đánh ngay trong thực địa. Toàn nói một câu lấp lửng:
- Tôi e tốn hai vắt cơm, anh Phong, anh Nhàn ạ… Biết đâu tụi nó chuồn ra ngả đường 12 thì hết hơi.
- Nếu bể dĩa ở đây thì tập kích. – Nhàn khoát mạnh tay – Các ông về kiểm tra súng đạn, ngụy trang hầm hố cho kỹ đi. Mấy đưa trinh sát không chịu để yên đâu.
Bất chợt, từ hướng đông vọng lại hai phát súng nổ ngắt quãng. Súng bắn dẫn đường. Không còn nghi ngờ gì nữa, đơn vị lính ngụy bắt đầu hành quân. Chừng mười phút sau, tiếp tục vang lên hai phát súng đáp lại. Lần này tiếng nổ xa hơn.
- Tất cả về vị trí. – Phong ra lệnh cho các trung đội trưởng.
Nhàn xốc dây thắt lưng và khoắc sợi dây dù đeo khẩu K.59 qua vai. Anh đi kiểm tra lại vị trí phục kích của từng tổ, từng mũi một lần nữa. Không có gì đáng ngại. Từ vị trí của các chiến sỹ đại đội 1 hướng xạ kích của họ có thể bao quát được phần lớn bãi ngụy. Tổ chặn đầu, tổ khóa đuôi đều được bố trí bằng hai khẩu B.40, mỗi khẩu tới tám quả đạn. Nhàn dựng lại bên Cường, trung đội phó trung đội 3.
- Cường này, chừng nào toán đi đầu tới gốc cây dẻ kia mới bắn đấy nhé. – Nhàn cẩn thận chỉ vào gốc cây dẻ khô nằm phía bên kia bãi ngụy. Anh quên đây là lần thứ ba anh nhắc Cường điều đó.
- Em biết rồi mà. – Cường khẽ gật đầu.
- Phát B.40 của cậu sẽ là hiệu lệnh phát hỏa cho cả đại đội đấy !
- Em sợ tổ của Lợi không diệt gọn tiểu đội đi đầu. Anh côi thử cần tăng cường người cho Lợi không ? – Cường băn khoăn.
- Không cần thiết ! Vả lại rút người ở đâu bây giờ ? Cứ đánh theo hợp đồng ! – Nhàn quyết định.
Khẩu cối 60 của đại đội đặt kề bên tổ mối. Loại cối bắn ứng dụng không có bàn đế. Trong hố cá nhân đào theo hình trong, Thản sắp hai chục quả đạn ngay ngắn trước mặt. Những ngòi nổ sáng lóa ánh đồng vừa mới được thao ra khỏi ống bảo quản, còn thơm mùi nhựa.
- Nhớ điểm bắn rồi chớ ? – Nhàn ngồi xuống đặt tay lên vai Thản.
- Nhớ rồi thủ trưởng ạ.
- Bắn năm đến bảy quả cấp tập, nhiệm vụ của cậu là chia cắt đội hình địch. – Nhàn nhắc lại phương án tác chiến – làm sao cho tụi phía sau bật trở lại để bộ phận xung lực tiêu diệt gọn tụi địch đã lọt vào bãi ngụy – Chợt Nhàn hỏi – Từ đây đến mép bãi ngụy kia cậu ước tính bao nhiêu mét ?
- Bảy mươi nhăm mét. – Thản đáp không đắn đo.
- Đúng đấy ! – Nhàn nheo mắt ước lwongj.
- Em đo được một trăm lẻ chín bước chân mà lại.
- Ờ…
Câu nói của Nhàn bị cắt đứt bởi hai phát sung vang lên bất ngờ. Tiếng nổ nghe đã gần. Nhàn nhìn Phong. Ánh mắt họ gặp nhau qua một thân cây đổ ngang. Nét mặt Phong không có một phản ứng. Anh ngồi quỳ một gối xuống đất, bình thản rít điếu thuốc. Theo như phân công, Phong sẽ chỉ huy toàn bộ số xung lực của đại đội. Nhàn nắm khẩu cối 60 của Thản, bắn chặn.
Thêm hai phát súng của toàn lính ngụy đi đầu bắn dẫn đường. Chỉ giây lát sau, phía đầu bãi ngụy đã thấp thoáng bóng tổ trinh sát đang chạy về.
Năm chiến sĩ trinh sát của tiểu đoàn cắt băng dọc theo bãi ngụy về phía Nhàn.
Bảo nhảy qua canh cây ngụy trang vào trong công sự.
- Anh Nhàn ! Địch tới . Chùng nó còn cách đây ba trăm mét.
- Được rồi ! Cho hai đứa ở lại đây với anh. Còn em dẫn một tổ chi viện cho tổ của Lợi tiêu diệt tiểu đội đi đầu.
Nhàn phất mảnh vài trắng ra hiệu cho Phong. Cả tuyến đã nhận được lệnh sẵn sàng chiến đấu.
Không gian yên ắng đến bất ngờ. Từ lúc tiếng súng nổ đợt hai, bây chim rừng đang tranh nhau ăn qua dâu đã hốt hoảng bay đi. Dường như lũ chim chọc cũng linh cảm được trận chiến sẽ nổ ra nơi đây trong chốc lát. Bây ve vừa mới đây còn cất giọng hát râm ri tự nhiên im bặt. Gió lùa trên lá cây xào xạc. Chỉ có loài quạ là đánh hơi nhanh nhạy mùi xú uế. Một con bay cắt ngang khoảng trống, màu lông đen in đậm như một vệt mực quét lên trên nền da trời màu xanh ngọc.
Sáu tên lính ngụy xuất hiện đầu tiên ở đầu bãi ngụy. Chúng hành quân theo đúng con đường trục mà tổ trinh sát của Bảo vừa về. Tiểu đội lính ngụy đi trước dọn đường chủ quan. Hầu như đich không thèm dòm ngó xung quanh, hàng một nối đuôi nhau đi về phía cuối bãi đóng quân. Một tên chĩa khẩu AR.15 bắt lên trời hai phát súng báo hiệu cho đội hinh đi phía sau. Tên lính đi đầu súng khoác ra đằng sau vai, tay cầm con dao Mỹ nhở bản . Lưỡi dao sáng phản chiếu anh mặt trời lấp loáng.
Phong nhìn thấy rất rõ những bộ mặt đỏ gay, nhễ nhãi mồ hôi của đám lính ngụy. Những chiếc mũ sắt nặng nề chụp ra ngoài vỏ nhựa. Ba lô căng chật, nhằng nhịt dây nhợ. Thằng lính đi sau còn đeo thêm cả chiếc xong nhỏ. Phong nhìn sang “tổ mối”. Mắt Nhàn hơi nheo lại, gương mặt người tiểu đoàn phó căng thẳng. Khẩu K59 Nhàn cầm sẵn trên tay, chĩa nòng ra hướng mục tiêu. Chỉ giây lát nữa thôi trận đánh sẽ bùng nổ.
 
I

iloveyou247_tintin

...tuyệt nhiên trong con người Phong không hề xảy ra sự xáo trộn lớn. Bản năng của người lính chiến đã rèn luyện cho anh sự điềm tĩnh, đôi khi đến lạnh lùng. Nhìn từng khuôn mặt của các chiến sĩ đang nằm yên trong hố cá nhân, nép sau những gốc cây làm vật che chắn, anh dường như hiểu được tâm trạng của từng người. Toàn cầm ngang khẩu AK tỳ trên bắp vế một chân quỳ như chuẩn bị tư thế xung phong. Cường ở đăng xa thỉnh thoảng lại nhìn Phong. Quý tiểu đội trưởng đã giương sẵn khẩu B40, lấy thân cây đổ làm bệ tỳ cho súng. Họ là những chiến sĩ đã quen với việc đánh đấm. Những tân binh như Mộc, Thọ, Tốt ... lần đầu tham gia một trận đấu quy mô có vẻ nóng ruột, phấp phỏng hơn. Trong khi đó cậu Thản, tay phải cầm sẵn một quả đạn cối đen sì, nhìn Phong khẽ nhoẻn cười, tỏ vẻ chắc thắng, tình huống địch xả ra y như tập trận thế này.

Sáu tên lính ngụy đi tới cuối bãi dừng lại. Chúng đặt súng xuống mép công sự và hạ ba lô. Nắng chói chang, nhưng chúng không dạt vào bóng cây. Có thằng cởi phanh áo để lộ bộ ngực cháy nắng đỏ như cua luộc. Phía ngoài rừng chợt vang lên hai phát súng.
Ánh mắt của Phong và Nhàn gặp nhau: " Đại đội địch đã tới" !
Đội hình địch đi sau tiến nhanh vào bãi ngụy trống trải. Chúng tin tưởng ở tiểu đội đi đầu. Tràn vào bãi, địch dồn cục cả lại, không còn đi theo hàng một như khi hành quân trong rừng. Thằng sĩ quan chỉ huy đại đội lính cỡ ngoài ba mươi tuổi, tiến vượt lên trước cất cao giọng:
- Trung đội một, trung đội hai về vị trí cũ - Hắn nói giọng Nam Bộ, nặng - Đá đâu ? ... Bắt sóng gọi trung úy Vi dồn nhanh đội hình, lẹ lên.
- Dạ.
Tên lính thông tin đeo chiếc máy PRC.25 truyền lệnh ngay vào tổ hợp.
Hai trung đội địch tản ra theo hai hướng. Tiếng nói, tiếng gọi nhau ồn ào.
Nhàn nhìn Phong và giơ cao chiếc khăn trắng.
Bốn trsi B40 nổ dữ dội, trùm lên thành bốn quầng lửa. Khói bụi đen kịt cuốn bốc cao. Mấy chục khẩu AK nổ giòn giã. Phong ném liền một lúc hai tría thủ pháo vào đám lính ngụy hỗn độn ngay trước mặt, cách anh chưa đầy hai chục mét. Một loạt tiếng nổ nữa của B40, của lựu đạn và thủ pháo. Địch co cụm dày đặc, bắn AK không đã. Thấp thoáng trong làn bụi khói, xác địch đè lên nhau. Thằng nào may mắn thoát chết đều chạy dạt vào đám cây rừng, phía bên kia bãi đất trống.
- Xung phong ! - Phong hét to.
- Xung phong ! Xung phong ! ... Xung phong...
Tiếng hét vang lên chen trong tiếng nổ. Trừ khẩu cối của Thản gióng giả cắt đội hình phía sau của địch, những người lính bộ binh kể cả Nhàn đều xông ra bãi tráng, nơi xác lính ngụy đổ ngổn ngang, kêu la.
Hai trung đội địch lọt vào ổ phục kích chết vãn. Tên sĩ quan chỉ huy và tên lính thông tin nằm đè lên nhau. phong lột luôn khẩu côn và mớ giấy tờ trong túi áo ngực của thằng chỉ huy. Nhàn đến chỗ Phong.
- Phong ! Thu nhanh vũ khí và ba lô. Năm phút nữa cho bộ đội rút.
- Lượm sao hết ba lô ? Lấy gạo thôi anh Nhàn !
Phong trông thấy Cường tay cầm khẩu B40, trên lưng đeo bốn khẩu AR15.
- Khẩu nào gãy, vất đi Cường - Phong gọi to - Tông đâu ? Đổng đâu ... Chuẩn bị cho bắn ĐK.
"ĐK" là mật hiệu rút quân khỏi trận địa.
Hai mươi phút từ lúc nổ súng, chưa hề thấy pháo địch bắn trả. Trung đội địch bị cắt lại phía sau cũng chỉ kịp thời phản ứng bằng vài loạt AR.15. Những trái đạn cối 60 đã tạo thành bức màn sắt vây bọc? Mà cũng có thể địch khiếp sợ bởi trận phục kích diễn ra quá bất ngờ ?
Toàn bộ đội hình của đại đội 1 rút về tới bờ Khe Điên mới nghe thấy tiếng pháo bắn ở ngoài khu vực bãi ngụy. Địch bắn pháo cấp tập.
 
I

iloveyou247_tintin

Phần II


Phó ban chính trị tỉnh đội Thái Long là người trên năm mươi tuổi, gốc dân Huế. Ông tập kết ra Bắc , rồi đi học và có thời dạy văn ở trường phổ thông cấp ba Chu Văn An, Hà Nội. Năm 1963, ông trở lại quân đội. Có học vấn văn hóa, là cán bộ chính trị viên phó tiểu đoàn, Thái Long được trên rút về công tác ở ban chính trị "công trường V", sau chuyển về tỉnh đội. Thái Long về K10 đã được hơn một tuần và cùng ban chi huy tiểu đoàn tổ chức đợt học tập chính trị với chủ đề " Quán triệt và thực hiện di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch".
Đại đội 1 được điều lên chân Dốc Đoác để nhận nhiệm vụ mới. Đội hình gọn nhẹ, đường thông suốt, chưa đến một ngày hành quân đơn vị đã tới địa điểm trú quân. Vùng quanh chân Dốc Đoác không có địch. Đêm ấy anh em chiến sĩ đại đội 1 đổ ra con suối Đá trước hậu cứ đi chém cá, soi cua trong lúc ban chỉ huy đại đội được tiểu đoàn mời lên báo cáo tình hình đơn vị và nhận kế hoạch. Mười ngày dành cho đại đội vừa nghỉ ngơi củng cố đơn vị, vừa học tập quán triệt nghị quyết.
Một ngày trời, ông Thái Long lên lớp chính trị phân tích cho những người lính nghe tình hình địch - ta, cuộc đấu tranh trên trường quốc tế và đặc biệt là diễn tiến của cuộc hòa đàm Pa ri. Rốt cục lại, ông vẫn dành cho việc lý giải cái thế mang tính chiến lược hiện nay ở chiến trường là việc bố trí lực lượng giữa quân chủ lực và quân địa phương đang sa vào tình trạng "hình chóp nón lộn ngược". Rằng các trung đoàn, sư đoàn chủ lực là những "quả đấm thép" mạnh, trong khi lực lượng vũ trang cấp xã, huyện từ sau cuộc tập kích chiến lược mùa xuân 1968 đang bị teo tóp dần.
Ông nói giọng Huế, pha chất giọng Hà Nội, cách diễn đạt vừa gọn, vừa xúc tích chậm rãi và biểu hiện cảm xúc trong từng lời nói. Những người lính giải phóng ngồi trên các thân cây, chăm chú lắng nghe, súng AK tựa vào vai. Đã lâu lắm, họ mới có được cuộc gặp mặt đông đủ thế này. Đầu óc thư thái, không phải lo nghĩ tới chuyện đi chốt gác, đi đồng bằng kiếm gạo ...Trung đội chinh sát của tiểu đoàn, có nhiệm vụ lùng sục bảo vệ hậu cứ cho những người lính bộ binh đại đội 1 yên tâm học tập.
Che phủ bởi vòm cây lá xanh, tít trên trời cao vọng lại tiếng may bay trinh sát VO.10. Lâu lâu, lũ máy bay trực thăng phành phạch lượt ngang qua đầu lên chi viện cho sư đoàn kỵ binh bay số 1 đang càn ở Dốc Chè, Núi Bông. Những chiếc H34 vuông vức như một toa tàu lững thững bay qua. Lâu lâu, pháo địch bắng lên từng đợt, đạn nổ khu vực địa đạo 310, điểm cao 360, Khe Trái...Dốc Đoác lọt thỏm trong tầm hỏa lực của pháo 105 ly, 175 ly của địch. Cứ mỗi lần máy bay trực thăng bay qua hay pháo bắn, tiếng đạn cắt gió rít trên đỉnh đầu, ông Thái Long đều dừng lại, hơi giỏng tai nghe ngóng và chờ đợi tiếng nổ. Gương mặt những người lính bình thản hơn. Họ đã quá quen và thậm chí nghe đường đạn pháo bay còn đoán định được hướng nổ.
Đại đội phó Tam được phân công phụ trách đơn vị học tập sáng nay. Anh nguyên là chuẩn úy, phong quân hàm từ ngoài Bắc khi đang ở khung huấn luyện sư đoàn 330. Tam được điều về đại đội 1 trước chiến dịch Mậu Thân, đầu tiên giữ chức vụ trung đội trưởng trung đội 3. Bảy tháng sau, đại đội phó Nguyên hy sinh trong chuyến đi đồng bằng đánh về Bồn Phổ. Tiểu đoàn đưa Tam lên thay cương vị ấy. Tam đánh giặc không xuất sắc, chưa có một trận đánh nào chứng tỏ Tam có tài chỉ huy. Nghe lính B3 đồn đại, Tam nhát gan và tính nết đối với anh em cũng ít cởi mở. Nhưng xét ra Tam lai là người có quân hàm cao nhất đại đội. Phong, chính trị viên Hảo, chính trị viên phó Ban, ba người cấp bậc quân hàm mới thượng sĩ. Tam hậm hực vì chuyện đó.
Hậm hực như vậy thôi, thực tình Tam cũng chẳng thiết tha với cương vị đại đội phó hiện nay, Tam nghĩ có làm ông tá, ông tớng mà phải sống chui lủi trong rừng, giưo lưng hứng chịu bom pháo của địch nện như giã gạo cũng không bõ. Gần hai năm chung sống với người lính bộ binh ở một vung giáp ranh, Tam cũng đã ớn đến tận cổ. Ngồi học trong lớp học, Tam không hề có một biểu hiện trên nét mặt. Những điều ông Thái Long trình bày, anh chỉ nghe câu được câu chăng. Tâm trí anh để vào tiếng máy bay, tiếng đạn pháo nổ, tiếng con chim gõ kiến đang mổ vào thân cây lốc cốc. Và tiếng con suối chảy róc rách len lách qua các lèn đá dưới xa kia.
Hai năm lăn lộn ở vùng giáp ranh, năm tháng tưởng kéo dài vô tận. Anh hay sốt vặt. Mỗi tháng một đôi lần. Những ngày sốt, Tam muốn kéo dài ra để anh tận hưởng bằng ký ức về những ngày còn làm anh đội phó đội sản xuất ở một hợp tác xã nông nghiệp vùng quê Kiến An. Nhờ chức đội phó sản xuất, kiêm trung đội trưởng dân quân, Tam được kết nạp vào Đảng. Tam có vợ ở quê, và hai đứa con gái. Tưởng đã được yên thân, nhưng không ngờ, anh vẫn bị gọi đi khám tuyển nghĩa vụ, rồi nhập ngũ. Đưa quân đi B, Tam hi vọng sẽ được trở ra Bắc. Anh ghé qua nhà, an ủi vợ chuyến đi này kéo dài nhất là ba tháng. Tam để lại cho vợ con bộ quân phục mới toanh. Một vài lọ thuốc bổ. Biếu thầy anh chiếc mũ cứng Trung Quốc. Chiến trường đã quấn lấy Tam và anh không sao gỡ ra nổi.
Chán nản và cố gắng giấu giếm nỗi tuyệt vọng cay đắng trước những chiến sĩ, Tam vẫn phải tự tìm cách thích nghi với hoàn cảnh mới. Không thích nghi cuộc sống của anh lính vùng giáp ranh với địch, anh sẽ chết. Giữ cho được "cái gáo" là quan trọng, là còn "gáo" là còn tất cả. Tam ngấm ngầm thực hiện cho triết lý ấy. Tam phong phanh đánh hơi biết K10 giải tán bổ sung quân cho huyện, xã. Càng nghe ông Thái Long phân tích tình hình, tưng lúc anh càng tự khẳng định điều ấy là sự thật không còn hồ nghi gì nữa.
Tam hìn dung ra những ngày sắp tới sẽ còn bi đát hơn cả chuỗi ngày ở K10. Dù sao đây cũng là một đơn vị bộ đội chủ lực. Có đại đội, có tiểu đoàn. Ít ra trong đội hình tiến về đồng bằng, đi trong rừng anh sẽ ở vị trí thứ năm, thứ sau, thậm chí đi cuối cùng chớ không phải là người lính đi thứ nhất. Còn một khi đã làm anh du kích, biệt động phân giới ấy chỉ là trò đùa với nhứng trái mìn định hướng hay mọt ổ phục kích. Hai năm sống nhờ cơm gạo của người dân đồng bằng, đủ để cho Tam rút ra những bài học xương máu. Tam không muốn dấn sâu thêm nữa vào nỗi cực nhọc của một anh lính địa phương bám ở tuyến đầu.
Chợt ông Thái Long nhìn chiếc đồng hồ Orien mặt trắng. Tam biết ý. Anh sửa lại quần áo và đứng lên, hai chân dẫm vào nhau, người thẳng như một cây gỗ. Anh dõng dạc nói to, hệt như một sĩ quan trực ban nhà nghề.
- Báo cáo thủ trưởng, đã tới giờ giải lao.
Ông Thái Long hơi mỉm cười.
Tiếng xì xào, ồn ã nổi lên. Tam nhắc.
- Yêu cầu các đồng chí giữ im lặng. Đây là chân Dốc Đoác chứ chưa phải là Hang Đá, đường tuyến đâu nghe.
- Từng cụm năm bảy người chiến sĩ tản mát quanh các gốc cây, vạt đá ngồi hút thuốc. Vây Thản “cối” là một đám gần chục người. Thản rê chiếc điếu cày đi tới đâu, mọi người à theo tới đó. Thản đưa chiếc điếu cho ông Sủng.
- - Ưu tiên bố “già”. Tụi con “kính lão đắc thọ” nghe bố.
- Thuốc ? – Ông Sủng hỏi.
- Ở nhỉ … Có đây !
Thản móc từ trong cái túi áo một bọc ni lông nhỏ, chậm rãi mở gói. Cậu ta muốn cố ý kéo dài nỗi thèm của những chàng nghiện thuốc lào đã lâu không được hút. Đây là thứ thuốc lào trồng ở miền Nam, sợi đen, Thản vớ được trong một ba lô ngụy, chiến lợi phẩm sau trận phục kích. Thản vê từng điếu phát cho mỗi người và dõng dạc tuyên bố:
- Còn một hiệp nữa. Để sau bữa cơm trưa.
Sủng hút trước tiên. Hai má lõm sâu. Ngọn lửa cháy bập bùng liếm vào từng sợi thuốc. Chiếc điếu cày sôi lên đành đạch.
- Thôi chứ “bố” Sủng ! Coi chừng “bố” rít hung quá vỡ mất nõ điếu.
Chiếc điếu cày lập tức được chuyền sang tay người khác. Ông Sủng ngửa người tựa lưng vào gốc cây dẻ khoan khoái thở ra một dòng khói trắng đục. Đôi mắt đờ đẫn.
- Ơ … Bố “già” say thuốc tụi bay ơi !
- Hừ… - Sủng cười, để lộ chiếc răng vàng – Ăn thua đếch gì. Còn thua thuốc lào Tiền Hải quê tao.
- Thứ này phải gọi thuốc Vĩnh Bảo bằng “cụ”.
- Nhưng mà rít một hơi đã nghiền cũng vui, phải không Thản “cối”.
- Tất nhiên rồi. Chả bù cho bữa trước phải đi lượm mấy mẩu thuốc thừa gom lại hút. – Thản đáp, và ráng rít cho đến khi nhùm thuốc trên nõ điếu cháy chỉ còn trơ tàn.
- Vui nhỉ. Các cậu kiếm mô ra thuốc lào ? – Ông Thái Long đã đên sau lưng hội “hút thuốc lào” từ bao giờ.
- Dạ… Thủ trưởng biết hút thứ này không ? – Sủng đỡ lời.
- Răng không biết ! – Ông Thái Long cười cười – Vợ tớ dân Hải Phòng mà lại. Cho mình một điếu nào.
Thản nhanh nhẹn móc bao thuốc hào phóng mời thủ trưởng tỉnh đội. Những người chiến sĩ ngồi xung quanh cũng chẳng từ nan, véo mỗi người một điếu. Suất thuốc dành cho sau bữa cơm trưa đã được kết thúc sớm hơn dự định. Ông Thái Long phải rít mấy lần mới hết điếu thuốc lào khá nặng. Lát sau, đến lượt ông mở bao dù lấy ra hai gói “Tam Đảo” bao bạc. Ông rút từng điếu chia cho mọi người. Còn chừng hơn một bao, ông gọi Tam lại và dặn anh đem chia đủ cho tất cả anh em trong đại đội.
- Đồng chí được mấy cháu. – Chợt ông Thái Long vỗ vào vai Sủng.
- Dạ, báo cáo thủ trưởng tôi sáu cháu ạ.
- Thưa thủ trưởng ! – Thản chen vào – “Bố” Sủng của chúng em còn ở nhà với “bu nó” thì chắc chắn bây giờ phải tám cháu ạ.
Đám chiến sĩ cười ồ.
- Cậu bao nhiêu tuổi mà đông con dữ vậy ? – Ông Thái Long mỉm cười hỏi Sủng.
- Dạ thưa thủ trưởng. Em đến tháng tư này là bốn mươi hai tuổi ạ.
- Trước khi đi bộ đội đồng chí làm nghề gì ?
- Dạ, em làm ở công ty vệ sinh, còn vợ con em làm ruộng.
- Kinh tế có đủ nuôi các cháu không ?
- Cũng túng lắm thủ trưởng ạ… - Sủng gãi tai.
Ông Thái Long im lặng một lát. Vầng trán của ông hơi nhíu lại hằn lên những vết nhăn. Giọng ông khẽ khàng nói với những người lính đang ngồi vây quanh ông, như thể nói với bạn bè…
- Cuộc chiến tranh ở đất nước mình phải huy động sức người, sức của quá lớn phải không ? Không những trai tráng ra trận đã đành. Người có tuổi, miễn là cầm được súng, chân leo được Trường Sơn là đều có thể trở thành chiến sĩ vệ quốc. Những ngày đầu vào bộ đội đánh Pháp, tôi cũng trẻ như ri – Ông Thái Long chỉ vào Thản.
- Cả phụ nữ nưa chớ thủ trưởng… Một chiến sĩ trẻ nói chen vào.
- Phải, cả phụ nữ… cả ông già, bà cả, con nít đều được huy động vào cuộc chiến đấu.
Tam hỏi thăm dò:
- Thưa thủ trưởng, tôi hỏi thế này không phải, xin thủ trưởng bỏ qua. Nghe nói cấp trên định phân tán K10 về địa phương phải không ạ ?
Ông Thái Long nhìn Tam trong giây lát.
- Chút nữa, tôi sẽ trình bày cho các đồng chí nghe chủ trương của Quân khu, của tỉnh đội…Nhưng xin hỏi các đồng chí một câu: Nếu phân công đại đội 1 tăng cường quân số cho huyện các đồng chí nghĩ sao? Thôi nhé, anh Tam xin miễn trả lời, tôi hỏi đồng chí này.
Ông Thái Long chỉ vào Sủng.
- Thưa thủ trưởng, tôi là một đảng viên, Đảng bảo sao tôi chấp hành mệnh lệnh nghiêm chỉnh.
Ông Thái Long ngắt lời:
- Tôi muốn hỏi điều này cơ. Đồng chí thấy chủ trương như vậy đúng hay sai ? Và có nên không ?
- Những điều thủ trưởng phân tích cho anh em tôi, nghe thấy có lý. Tụi tôi sẵn sàng về chiến đấu ở xã, ở huyện. Nói đúng ra là làm quân xã, huyện …
- Đồng chí còn e ngại điều chi? – Ông Thái Long động viên.
- Cấp trên phải đả thông cho xã, huyện đừng mặc cảm với anh em bộ đội và coi anh em bộ đội như người địa phương mình.
- Anh nói điều đó xem ra khó đó nghe, anh Sủng. – Thản ngắt lời Sủng.
 
I

iloveyou247_tintin

- Tại sao khó hả đồng chí ?- Ông Thái Long nhìn Thản. Rồi ông nói tiếp: - Tôi là một đứa con của Huế, chín năm đánh Pháp xong tôi ra tập kết. Đồng bào miền Bắc cưu mang tôi. Có những bà mẹ nhận tôi làm con nuôi. Vợ tôi người Bắc. Vậy lẽ nào các đồng chí từ các nẻo quê hương miền Bắc vào đây chiến đấu, chính quyền địa phương các cấp lại có thể có thái độ phân biệt. Máu của chiến sĩ ta đổ ra vì sự nghiệp giải phóng miền Nam đều cao quý như nhau. Người chiến sĩ trước lúc ngã xuống trong cuộc chiến đấu chắc chắn không ai tự chọn cho mình một vùng đất để chết. Tôi nghĩ rứa đó. Và các cấp huyện, xã cũng phải nghĩ như rứa. Phải không ...
Không một ai trả lời. Họ ngồi im nghe ông nói.
- Các đồng chí hãy tin tôi – Mục đích cuối cùng của Đảng, của cấp trên là làm sao mau chóng kết thúc chiến tranh, thống nhất Tổ Quốc. Ai cũng mong hòa bình đến sớm. Và, nếu hi sinh thì đó không chỉ là nỗi đau của một người vợ, người mẹ, của những đứa con mồ côi cha mà là con nỗi đau chung của Đảng, của dân tộc…
Tiếng máy bay trực thăng cắt ngang trên đầu át câu nói của ông Thái Long. Bốn chiếc máy bay trực thăng bay thấp, hiện ra trên hoảng trống của tán cây rừng. Chúng tiếp tục chở quân lên miền tây sông Bồ.
- Báo cáo thủ trưởng, đã đến giờ lên lớp. Xin mời đồng chí tiếp tục làm việc. – Giọng Tam rắng đanh, đầy vẻ trân trọng. Ông Thái Long đứng dậy:
- Cám ơn đồng chí, đồng chí mời anh em vào lớp.
*
* *
Cuộc họp đảng ủy tiểu đoàn mở rộng đã bước sang ngày thứ hai. Và xem chừng gay go khi bàn bạc trao đổi về nhiệm vụ cụ thể của các đại đội. Ngoài số đảng ủy viên của tiểu đoàn, cấp trưởng của các đại đội đều được mời dự họp.
Khi tiểu đoàn trường Triều công bố lệnh giải thể tiểu đoàn giao cho huyện đội thì phản ứng của các cán bộ đại đội nổi lên. Mũi nhọn công kích xuất phát từ Phong và Hỉ – chính trị viên đại đội 3. Hảo – chính trị viên đại đội 1 và Quý đại đội trưởng đại đội 3, dè lời hơn và thường nêu những khó khăn về phương thức tác chiến.
Chính trị viên kiêm bí thử đảng ủy tiểu đoàn Trần Đang ngồi ghi lại hết các ý kiến.
- Việc giải thể K10 chứng tỏ cấp trên không tin chúng tôi – Phong nói gay gắt – Phải chăng “K” ta đánh kém sút hơn so với kỳ “ Mậu Thân” ở Huế. Mà kém sút là đúng. Điều kiện chiến trường của K ta khi còn ở Phú Vang, Quảng Điền, những năm 1965 – 1966 và dạo Mậu Thân khác với bây giờ. Ngày đó chúng ta có đất, chúng ta có dân, có vùng giải phóng hẳn hoi. Bộ đội sống trong dân. Ban ngày địch đổ quân càn. Chúng ta đánh càn. Các làng ấp ban đêm là của ta. Bộ đội còn biết hơi ấm của cái giường, biết miếng canh cá của đồng bào nấu cho ăn mỗi bữa. Còn bây giờ ? Hai năm nay thử hỏi K10, K6, K4 … và thậm chỉ cả hai đại đội đặc công của tỉnh có đơn vị nào về bám trụ nổi ở đồng bằng lấy hai ngày. Chỉ cần nghe có bộ đội về làng, y như rằng phi pháo, trực thăng đổ quân đến quây quét. Các đơn vị đều bị đánh bật lên xanh, bám vào giáp ranh cũng chỉ có một số lượng ít ỏi. Chúng ta đánh kém là phải. Bị cấp trên phê phán , chỉ trích là đúng. Các đơn vị lo kiếm miếng ăn đã vất vả chứ đừng nói chi tới đánh địch. Lỗi tại ai ?
- Rồi sao nữa, cậu nói tiếp đi Phong…- Ông Triều cười khẽ và tiện tay rút một điếu Rubi xanh châm hút.
- Tôi khẳng định, bộ đội K10 không đánh giặc kém. Bằng chứng là C1 đánh trận tập kích ở bãi ngụy dưới chân Chóp Nón vừa qua, bộ binh của chúng ta vẫn đủ sức chiến đấu và có khả năng tổ chức những trận đánh lớn.
- Không ai phản đối ý kiến của đồng chí Phong.- Ông Thái Long ngồi bó gối nghe Phong nói một cách chăm chú.
- Vậy, thưa các đồng chí, không lẽ gì chúng ta chấp nhận phương án giải tán tiểu đoàn. Tôi xin quả quyết, chỉ cần giao những chiến sỹ ưu tú của chúng ta cho huyện, cho xã chỉ chưa đầy sáu tháng sau chúng ta sẽ mất quá nửa số chiến sỹ ấy…Không…Không nên, tôi đề nghị các anh điện lên trung đoàn, điện sang tỉnh, lên Quân khu đừng giải tán K10. Tiểu đoàn ta có truyền thống đánh giặc trên mảnh đất Thừa Thiên cả chục năm nay. Đồng bào ở đây nhắc đến K10, K4, K6 ai mà không biết.
Không khí trong căn hầm ắng đi một hồi lâu. Giọng Phong thống thiết quá, và hình như anh xúc động. Mọi người đều thấy anh đưa tay lên chùi khóe mắt, giọng đứt quãng. Điều Phong nói là sự thật. Và người hiểu rõ những điều anh nói ở đây hơn ai hết là ông Triều, là Hảo , là Quý, là Ban, là Hỉ … và cả ông Thái Long. Những người lính kỳ cựu của K10 từ ngày tiểu đoàn mới thành lập mang số hiệu 801, thời ấy ông Tư Hiền – phó ban tác chiến của quân khu bây giờ - mới còn là anh tiểu đoàn trưởng, mặc quần đùi vác tôm-xông chỉ huy lính K10 vượt phá Tam Giang về giải phóng vùng cát Phú Vang. Phá toang những làng xanh ở Phong Điền, Quảng Điền nối thông tuyến hành lang giữa vùng đồng bằng các huyện, dọc ven biển. Lần đầu tiên những lá cờ nửa đỏ nửa xanh, có ngôi sao vàng ở giữa phất phới bay trên nóc đình làng.
Điều đó là sự thật ! Các cửa sổ cố đô Huế bị phá banh trong những ngày tiến công và nối dậy mùa xuân năm 1968. Địch ngán đòn phủ đầu của quân “Ông Tư”. Trên sông Hương, tàu chiến địch cháy. Những trận chăn giặc ngay cửa quán cơm Âm Phủ của mười một cô gái Huế năm trong đội hình chiến đấu của bộ đội K10. Mới hơn hai năm nay chuyện cũ đã chìm vào trong dĩ vang, chỉ còn được nhắc lại với giọng đầy phấn khích và ngưỡng mộ của cuốn biên niên sử hằn sâu trong ký ức những người lính cũ còn có mặt trong tiểu đoàn đến bây giờ. Họ kể cho lứa tân binh mới nhập cuộc chiến tích lẫy lừng của đơn vị. Các tiểu đoàn lính ngụy vốn khét tiếng dũng mãnh của sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu đoàn “Trâu điên”, “Cọp biển”. “Cáo đen” … Giáp mặt với lính K10 còn phải sợ. Truyền thống của tiểu đoàn nuôi dưỡng những tâm hồn anh lính mới tò te, niềm tự hào được làm quân “Ông Chi”, “ông Một”, “ông Khánh Lửa”… Từ lâu đội hình trung đoàn bị xé nát ra hai cánh. Tiều đoàn , đại đội tác chiến độc lập – đấy là phong cách đánh giặc của đại đội K10 có từ lâu.
Hình như ông Triều cũng khóc. Điếu thuốc Rubi tắt ngấm. Lúc ông quẹt lửa, quầng sáng phát ra từ chiếc bật lửa Trung Quốc soi tỏ đôi mắt ông đỏ hoe.
- Đồng chí nào có ý kiến phát biểu, xin cứ tiếp tục. – Ông Thái Long kéo mọi người trở lại không khí của cuộc họp.
Sau Phong chưa có ai lên tiếng. Trong căn hầm mái bằng rồng, kê sạp ken bằng cây đùng đình, người ngồi họp lèn vai nhau. Không khí ắng lặng tới mức nghe rõ cả tiếng chiếc bấc đèn cạn dầu kêu lật phật. Và có tiếng ai đó thở dài.
- Giải tán K10 về địa phương là không đúng. – Một lúc lâu sau Hỉ nói – Chúng tôi được đào tạo từ miền Bắc vào miền Nam đề đánh giặc, làm anh bộ đội chủ lực chứ không phải để làm anh du kích… Đấy là công việc của địa phương phải đảm trách lấy lực lượng tại chỗ. Cớ chi các anh bắt bộ đội làm chuyện đó.
- Nhưng huyện , xã không đáp ứng nổi yêu cầu như đồng chí đưa ra, thì tính ra răng đồng chỉ Hỉ ? – Ông Thái Long điềm đạm nêu câu hỏi.
- Thì cách chức họ ! - Hỉ nói dứt khoát.
Mọi người ngồi họp đang trong bầu không khí căng thẳng bỗng cười ồ.
- Cách chức cả, thì lấy ai chỉ đạo phong trào. Chỉ đạo hàng loạt tuyến cơ sở mật ở vùng sâu?
- Vậy tại sao ta không tổ chức đánh lớn về đồng bằng, nhân đấy bắt thanh niên đưa lên núi ? Tụi ngụy còn biết bắt thanh niên bổ sung lính. Tại sao ta không làm việc đó. Hẳn các anh còn nhớ bốn tên tù binh đại đội 1 bắt hôm rồi, hai tên trong số đó mới bị bắt vô lính chưa đầy bốn tháng. Tại sao … ?
Hỉ chưa nói hế câu…ông Thái Long đã cắt lời.
- Tại sao à ? Tại vì chúng ta là quân đội của nahan dân. Chúng ta cần những người lính giác ngộ lý tưởng chứ không cần một đội lính đánh thuê. Vậy đó, đồng chí Hỉ ạ…Huyện, xã kể cả tỉnh và quân khu đều mong có một lực lượng vũ trang địa phương mạnh. Và chỉ có địa phương mạnh thì chủ lực mới mạnh. Nhưng người kiếm mô ra ? Quân khu, quân ủy, Tỉnh ủy phải bàn nát nước, nát cái mới đưa ra quyết định điều bộ đội K10 về củng cố cho địa phương. Và chính lực lượng này phải bám dân gây dựng cơ sở tạo tiền đề cho việc rút thanh niên trong một khoảng thời gian ngắn. Tôi xin nói, đó là mệnh lệnh.
Đúng hay sai, thời gian sẽ khẳng định. Các đồng chí và tôi sẽ tự kiểm chứng. Nhưng quyết định này là cần thiết và đúng đắn. Không có cơ sở cách mạng bám trên địa bàn các huyện, các xã thì rồi không khéo “cha con” ta không chỉ rút lên Bốt Đỏ, Hang Đá , đường tuyến đâu. Chưa biết chừng địch hất chúng ta sang đất Lào. Hiện nay địch đang càn Dốc Chè, Dốc Mèo, Núi Bông. Và năm ngoài định càn A Lưới, xe tăng, M113 tiến dọc theo đường 12 lên tới cây số 23. Đường tuyến tắc xe. Gay go biết bao nhiêu…Bài học của tiểu đoàn 439, được rút ra bằng máu về công tác tổ chức, chỉ huy và chỉ đạo cho một đơn vị chiến đấu… Các đồng chí hãy tin, không bao giờ quân khu và tỉnh có ý nghĩ óa đi truyền thống tốt đệp của tiểu đoàn 10, đứa con của đồng bào Thừa Thiên hàng chục năm nay. – Chợt gộng ông Thái Long đanh cứng – Đồng chí nào còn thắc mắc xin cứ tiếp tục đề đạt nguyện vọng. Tôi và anh Triều, anh Đang, anh Ngạn, anh Nhàn có trách nhiệm báo cáo về tỉnh xin ý kiến giải quyết . Nhưng các anh phải quán triệt nghị quyết của đảng ủy và làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ và chiến sỹ của đại đội mình. Vì đó là quân lệnh – Giọng ông Thái Long dứt khoát. Mọi người đều hiểu cuộc họp tới đây tạm chấm dứt.
- Tôi nay đúng bảy giờ , tiếp tục họp !
Ông Đang công bố.
Mọi người nối đuôi nhau bước ra khỏi căn hầm không ai nói thêm điều gì. Nét mặt người nào người nấy căng thẳng và mệt mỏi.
 
I

iloveyou247_tintin

Phần III

Đến bãi đá dọc Khe Diên, còn cách đường 12 chừng hơn nửa giờ đi bộ, Cường cho cả tổ dừng lại. Càng đổ về xuôi, long Khe Điên mở rộng, nhiều cát. Hai bên bờ mọc đầy dứa dại và những vạt môn ngứa.
Nhóm chiến sỹ do Cường chỉ huy có ba người của đại đội 1 và hai tên tù binh ngụy bị bắt trong trận đánh tập kích địch ở bãi ngụy . Trong số bốn tên tù binh có hai tên sau lúc giải về tới hậu cứ của đại đội, lợi dung đêm tối bỏ trốn bị vấp mìn, tan xác, cách căn hầm chưa đầy hai trăm mét. Cái chết của chúng gây tác động tâm lý với hai tên còn lại. Mặc dù không bị trói nhưng suốt mấy ngày giam không tên nào dám bén mảng ra khỏi hầm. Thậm chí đi ỉa chúng cũng sợ vấp mìn. Lúc chôn cất hai tên địch chết, Phong cho người đưa hai tên tù binh còn lại ra coi mộ bạn. Chúng sợ và hứa không dám có một hành động nào chống đối “bộ đội giải phóng”!.
Hai người tủ binh ngụy làm tờ khai tên tuổi, quê quán, quân hàm, phiên hiệu đơn vị và cả những điều chúng biết về đại đội 12, thuộc tiểu đoàn 3, E54. Họ là lính trơn nên cũng không giúp gì nhiều cho tin tức quân báo.
Cường cho phép hai tu bình được tháo dây trói. Chúng im lặng, vẻ mặt buồn thiu, lầm lũi như hai cái bóng ngồi bệt xuống gốc cây. Hai gã tù binh, một tên đã khá tuổi, một còn trẻ. Gã lớn tuổi đầu cạo trọc, trên cằm có một nốt ruồi ro bằng hạt ngô. Một chụm lông ba bốn sợi dài quăn tít mọc ra từ mụn *** ruồi ấy. Còn gã tù binh trẻ tuổi, trông nét mặt có vẻ ba trợn ba trạo. Tóc phủ rợp hai tai, cổ áo lính cáu bẩn. Cường nhắc hai người chiến sỹ của mình là Mộc và Tân ngồi tản rộng ra. Anh lại gần hai tên tù binh, bảo:
- Các anh lấy cơm ra ăn đi.
Tên tù binh trẻ tuổi nhanh nhẹn mở bọc ni lông lấy ra cục cơm vắt và gói muối lạc. Người tù binh già ngó vào khẩu súng AK trong tay Cường, ánh mắt thoáng vẻ sợ sệt.
- Các ông định bắn tụi tôi?
Cường mỉm cười.
- Bắn các anh, mắc mớ gì phải đưa đi vất vả thế này. Ăn cơm đi, chốc nữa khắc biết.
- Xin các anh, mong các anh tha cho tội chết. Em còn mẹ già con dại. Cực chẳng đã, em mới phải vô lính.
Nghe gã tù binh lớn tuổi nói giọng Huế, Cường hỏi gã:
- Anh quê ở đâu ?
- Dạ, quê em đúng như đã trình với mấy anh trong tờ khai. Em người Hương Trà.
- Hương Trà ?
- Da, thưa đúng vậy.
- Anh ở thôn nào ?
- Dạ, em người Liễu Thượng.
- Thật người Liễu Thượng không ?
- Dạ, thiệt ạ !
- Anh có biết má Mừng có hai người con tên là Tâm và Minh không ?
Gã ngụy binh reo lên :
- Dạ, thưa anh em biết. Thím Mừng có chồng đi tập kết. Ba má con thím trốn lên núi theo cách mạng từ năm “ sáu ba”. Em là bà con xa của thím Mừng.
- Vậy hả?
Cường biết gã tù binh nói thật.
- Này, nhà anh ở cách khu trường bao xa ?
- Dạ, thưa anh chưa đầy một trăm mét… Trời ơi, khu trường luôn luôn bị mấy anh về bắn “hỏa tiễn”.
- Vợ con anh còn ở Liễu Thượng ?
- Dạ, ở cả đó thưa anh. Vợ em có lần bán đậu phộng cho bộ đội từ trên núi về làng. Quê em trồng nhiều đậu lắm.
(Điều này gã nói càng chính xác ! Chị Tâm ngày còn sống đã đưa bộ đội về Liễu Thượng mua gạo, mua đậu phộng. Cường đã đi với chị nhiều lần ).
- Lâu nay anh có nghe tin tức của chị Tâm không ?
- Dạ thưa anh không ạ.
( Làm sao hắn biết được chị Tâm đã hi sinh!).
- Anh tên gì ?
- Dạ thưa, em tên Ngật. Trần Ngật. Em sanh năm 1930. Năm nay em vừa tròn bốn mươi. Em có bốn cháu còn nhỏ cả…
Gã tù binh khai tuồn tuột lý lịch, hi vọng tìm lấy ở Cường một sự thông cảm. Cuối cùng gã buột ra nỗi lo lắng làm bận lòng trên suốt quãng đường rừng bị giải đi.
- Xin các anh tha tội chết. Đừng giết em. Em còn đàn con nhỏ.
- Anh khỏi lo. Chúng tôi không bắn anh đâu. Nhưng nay mai anh được thả về nhà liệu có đầu quân trở lại cho tụi ngụy nữa không ?
- Trời ơi ! – Gã ngụy kêu lên – Chỉ mong còn mạng về sống với vợ con. Tụi em đâu còn ý tưởng trở lại đơn vị.
- Nhưng làm sao các anh thoát khỏi tay tụi tề ngụy ở xã, ở quận.
- Dạ, có cách ạ. Dù tốn bạc ngàn tụi em cũng không dại trở lại lính.
- Sao vậy ?
- Dạ, ở đời mấy khi gặp được điều may.
- Thôi được, anh ăn cơm đi.
Cường giục gã tù binh. Anh cũng ra ngồi trên tảng đá ăn nắm cơm vắt. Đường 12 đã gần lắm rồi. Cường lắng tai nghe, anh nhận ra được cả tiếng xe cahyj ầm ì. Mộc nói:
- Anh Cường ơi, em nghe tiếng xe tăng.
- Không phải. – Cường đáp – Tụi ngụy cho xe cày ủi hai bên đường.
Chừng ba mươi phút sau cả tổ lại tiếp tục tiến ra đường 12. Mộc giải hai tù binh đi sau. Cường cùng với Tân tiến lên phía trước, cách nhóm của Mộc chừng ba chục thước. Con đường rừng mới đạp, càng ra gần đường lộ càng khó đi. Nhiều đoạn con đường chạy ngược lòng khe suối. Lá dứa sắc cứa vào đùi vừa ngứa vừa rát. Chốc chốc máy bay trực thăng vận tải bay lướt trên đỉnh đầu. Cường vẫy tay ra hiệu cho cả toán dừng lại, đợi chiếu máy bay bay qua. Tiếng xe ủi vọng lại lúc gần lúc xa.
Hơn một tháng trước đây, Cường đã có dịp đưa ông Triều và ông Đang sang họp ở bên trung đoàn đi cùng với tổ trinh sát của tiểu đoàn. Cường vẫn còn nhận ra cả vết dao anh phát vào thân cây nhỏ đánh dấu đường. Lá non bị bẻ mới kịp khô đầu cuống. Đường mới mở thường là an toàn hơn so với những con đường trục cũ. Tụi thám báo, và các đơn vị lính ngụy đi càn rừng hay nhằm vào những con đường trục để gài mìn và phục kích.
Còn cách bìa rừng chừng trăm mét. Cường cho đội hình dừng lại. Anh lặng lẽ cầm súng đi ra ngoài đường 12, sau lúc dặn dò Mộc và Tân trông chừng hai gã tù binh. Anh nằm xuống một bên gốc cây đổ. Vạt đất trồng rộng thênh thang cách xa con đường gần năm bảy chục mét. Cây rừng bị đánh bật gốc. Các triền đồi tranh lửa liếm cháy đen loang thành từng vạt nhỏ như tấm da báo khổng lồ. Hai bên đường đều bị máy ủi cày sới lên như vậy. Con đường rải đá nhiều đoạn láng nhựa, lỗ chỗ những hố pháo bắn trúng tim đường phơi trần giữa nắng. Phía bên kia ngọn đồi tranh âm vang tiếng xe ủi gầm gừ đào cây, vẳng lại cả tiếng của tụi lính công binh ngụy la hét, gọi nhau. Có hai chiếc xe chở đầy gỗ chạy chậm trên đường; lắt lẻo ngồi trên những khúc gỗ lớn, mấy gã thanh niên đứng níu tay vào thành xe ngênh mặt giữa nắng. Trông cách ăn mặc, cũng đủ biết đấy là những người dân lên thầu lại số gỗ do tụi công binh ngụy đốn hạ mở rộng phạm vi cảnh giới tuyến đường xe.
Lại một chiếc xe Jeep vùn vụt lao qua. Trên xe chỉ có ba tên lính Mỹ. Trời nắng. Chúng cởi trần để lộ ra khouoonn mặt và mảng da lưng đỏ lựng.
- Tụi địch chủ quan gớm. – Cường lẩm bẩm.
Giá như được phép đánh, chỉ cần một trái B40 anh sẽ tiêu hủy chiếc xe ra tro. Tụi Mỹ ỷ thế có căn cứ Động Tranh và các đơn vị lính gác dọc đường.
Cường quay trở lại. Mộc và Tân ngồi chờ anh phát nóng ruột.
- Có chi ngoài ấy, anh Cường ?
- Địch đang ủi đường.
- Bao giờ mới tính tới tụi này ? – Mộc ra ý chỉ vào hai gã tù binh ngồi ngủ gà ngủ gật.
- Lát nữa.
- Có cần bịt mắt không ?
- Chẳng cần !

*
* *
Vừa được lệnh phóng thích, cả hai gã tù binh đã cúi xuống sụp lạy những người lính giải phóng.
Dường như chúng vẫn chưa tin điều Cường nói. Đôi mắt hai người lộ vẻ mừng rỡ, như chưa xua tan hết vẻ lo ngại. Họ không nhìn vào ba người lính giải phóng đang đứng trước mặt mà lại để ý tới những họng súng AK đen trũi, và trái B40 đã đơm sẵn trong nòng súng.
- Cứ đi thẳng theo hướng này, ra gặp bìa rừng, băng qua vạt đồi tranh cháy tới đường, các anh xuôi theo phía đông. Chừng nào gặp tụi tuần đường nhớ ra hiệu kẻo nó bắn nhầm. Và nói rằng bị bắt làm tù binh được quân giải phóng thả. Nhớ chưa ? – Cường hỏi lại.
- Dạ nhớ. Suốt đời em không quên ơn mấy anh.
Người tù binh tên là Ngật trả lời nhanh nhảu. Chợt gã hỏi.
- Mấy anh có dư cuộn băng nào, làm ơn cho em xin một cuộn… - Gã nói thêm – Phòng khi cơ nhỡ trên dọc đường.
Cường móc túi thuốc cá nhân đưa cho Ngật cuộn băng còn nguyên trong bao ni-lông sạch sẽ.
Ba người lính đi theo hai gã tu binh ra tới cây gỗ đổ sát bãi cát trắng mới dừng lại.
- Thôi chay đi ! – Cường giục họ.
Ngật còn quay lại nhìn một lần nữa những người lính giải phóng trong khi gã tù binh trả tuổi đã cắm đầu chạy ào ra ngoài sường đồi tranh khô xác.
- Thôi đi đi anh Ngật. – Cường giục và vỗ nhẹ vào vai người lính ngụy.
Ngật đi thất thểu, cách gã tù binh đi trước một quãng xa. Vừa đi gã vừa nghe ngóng. Tự nhiên gã dừng lại. Ba người lính đều nhìn thấy Ngật lượm lên một hòn đá. Không nói không rằng gã kê bàn tay trái vào một tảng đá lớn và đập mạnh.
- Anh Ngật ! – Cường gọi giật. Anh quên rằng mình đang đứngnêm con đường 12.
Ngật quay lại. Tuyệt nhiên, gã không hề cảm thấy đau đớn, mà gương mặt ấy lại ánh lên một nụ cười. Gã giơ cao bàn tay về phía Cường. Bàn tay nhày nhụa máu, dập nat. Ngật loạng choạng tựa lưng vào tảng đá, rút ra cuộn băng của Cương vừa mới cho, gã dùng răng và bàn tay phải băng nhanh bàn tay bị thương.
- Gã tự thương anh Cường ơi ! – Mộc không nén nổi giọng run run.
- Ờ, hắn tự thương.
- Nó gan nhỉ. _ Tan chép miệng.
Mộc và Tân mới về đại đội 1 chưa đầy năm tháng. Lần đầu tiên họ được nhìn thấy con đường của ngụy và chứng kiến cảnh tên tù binh tự thương.
Ngật tiếp tục bước đi, cắt ngang vạt đồi tranh bị cháy sém đến tận gốc. Trước khi ra tới đường đá, Ngật dừng lại lần nữa nhìn về phía cánh rừng. Gã không vẫy tay, đứng im lặng một lát rồi lầm lũi bước trên đường.
Không còn nghe thấy tiếng xe ủi gầm gừ phía bên kia quả đồi trang. Trời ngả về chiều. Ánh nắng rải vàng ở sườn núi. Xào xạc trong lùm cây xanh tiếng chim gõ kiến mổ vào thân cây cồng cộc.
Họ đã có thể quay trở lại theo con đường cũ. Nhưng Mộc và Tân thấy Cường còn ngồi nép vào gốc cây nhìn ra con đường đá, họ không dám giục anh.
Mộc hỏi rụt rè:
- Anh Cường, cứ xuôi con đường này vào đến Huế à ?
- Ở, tới Huế. – Giọng Cường trở nên đờ đãn – Chẳng xa mấy nữa đâu.
- Anh đã vào Huế bao giờ chưa ?
- Chưa … Chị Tâm bảo : Huế đẹp lắm…
 
I

iloveyou247_tintin

Phần IV

Phong chiếu bản đồ, đường đạp dài chưa tới ba chục cây số lên tới địa đạo 310. Toán tải thương đi mãi tới khi trời tối vẫn chưa gặp lại con đường trục giao liên dẫn ra trạm phẫu, năm ở nam sông Bồ. Tuyến đường Dốc Đoác lên Khe Trái, Mỹ đỏ quân chốt giữ và đang càn lớn. Điểm cao nào cũng có địch. Trinh sát tiểu đoàn hai lần vấp phục kích tụi Mỹ, hy sinh mất một người, bị thương một.
Một loạt cối 81 địch bắn bất tử từ trên cứ điểm Chóp Nón xuống khu vực Dốc Đoác. Nhiều chiến sĩ, cán bộ đại đội 1 và tiểu đoàn bộ móc võng nằm rải rác trên mặt hầm khi quả đạn cối nổ gần, không ai bị gì. Mảnh đạn lại nhằm trúng Nhàn. Vết thương vào bụng khá nặng và một mảnh nhỏ xuyên vỡ mắt trái. Nhàn ra nhiều máu, có nguy co nhiễm trùng. Ông Triều và ông Đang lo lắng, sau cùng quyết định cử đại đội 1 đi tải thương. Mới đầu Tam được chỉ định chỉ huy nhưng anh đã lấy cớ chiếc mụn ở mông tấy mủ. Cuối cùng Phong đi, mặc dù anh đang phải cùng với Hảo tổ chức cho đơn vị học tập và làm công tác biên chế bộ đội để phân về các xã và cho bộ đội biệt động huyện. Bốn ngày nữa, đơn vị sẽ chính thức giải thể.
Nhàn mê man bất tỉnh suốt dọc đường. Đêm qua Phong đã thức trắng cùng Thoại, y tá của đại đội để canh chừng Nhàn. Thuốc trợ lực, thuốc kháng sinh đều dốc ra tiêm nhưng vấn đề bây giờ Nhàn cần mổ gấp. Càng về sáng sương càng xuống lạnh. Nhàn lúc mê man, lúc tỉnh. Chốc chốc Phong cầm bàn tay Nhàn xem mạch.
- Cậu không mổ nổi hả Thoại ? – Phong cáu kỉnh.
- Em mổ sao được ! Thoại phân bua.
- Thằng Khoảng y tá ở phẫu có lần đã mổ đấy thôi.
- Ở trạm phẫu có dụng cụ, có thuốc gây mê. Chớ ở đây lấy gì mà mổ. Anh tưởng mổ ruột con người dễ như mổ gà hử.
- Ở … Đừng giận. Tao sốt ruột quá Thoại ạ, chỉ lo anh Nhàn không qua nổi đêm nay.
- Mong sao mai sớm tới được chỗ anh Nhô. Mỹ càn lung tung như thế này sợ trạm phẫu chạy rồi.
Phong không đáp. Anh ngồi cời than sưởi ấm người bệnh và hơ đôi tay lạnh giá của mình lên lớp than hồng.
Nhô là y sỹ nhưng mổ giỏi có tiếng ở cánh bắc. Nhiều ca thương binh nặng từ dưới vùng giúp ranh đưa lên đã được Nhô cứu sống. Anh mổ nhanh và chính xác, mũi khâu khéo. Những tay bác sĩ chuyên khoa ngoại ở quân y viện 94 phải khen kỹ thuật mổ thương binh của Nhô. Chính vì khả năng ấy, trạm phẫu Nhô không có bác sĩ. Một mình Nhô và hai y tá chốt ở bờ nam sông Bồ để giải quyết thương binh, bệnh binh.
Ánh lửa cháy bập bùng, soi rõ vạt máu khô dưới võng của Nhàn. Sau mũi tiêm cách đây chừng nửa giờ Nhàn không rên nữa. Anh thiếp đi. Băng quấn kín nửa mặt. Nửa mặt còn lại lộ rõ nước da xanh tái, nhợt nhạt.
Phong kém Nhàn bốn tuổi nhưng có mặt ở chiến trường Thừa Thiên trước Nhàn ba năm. Nhàn nhập ngũ, đi học trường lục quân và có một thời kỳ dài làm cán bộ huấn luyện ở trường. Hai người đã gắn bó với đại đội 1 ba năm trời. Nhàn đại đội trưởng, Phong khi đó là chính trị viên phó rồi lên chính trị viên trưởng. Nhàn được điều lên làm tham mưu trưởng tiểu đoàn. Phong thay vị trí đại đội trưởng chủ công của anh. Ba năm cùng nằm chung hầm và lo toan gánh vác nhiệm vụ nặng nề của đơn vị đóng ở giáp ranh, hai người thấu hiểu nhau như một cặp tình nhân. Nhàn đã có vợ - một cô thợ dệt ở nhà máy dệt Nam Định và hai con nhỏ. Chưa bao giờ Phong được đặt chân tới thành phố quê hương của cụ Tú Xương. Qua lời Nhàn kể, vào những đêm hai người nằm gác chân lên vong trong căn hầm chật hẹp. Phong hình dung ra đấy là một thành phố ồn ào bởi tiếng máy chạy, tiếng xe, tiếng tàu hỏa ra sao, Phong cũng không rõ. Tuyến đường sắt khả di anh còn biết được sau lần hành quân ra Quảng Trạch, ở đấy còn vài đoạn đường từ thời Pháp để lại. Cho đến khi học xong phổ thông, Phong chưa vượt qua huyện Lệ Thủy của anh và cái thị trấn Chéo, nằm bên bờ sông Kiến Giang. Xa hơn chút nữa vài ba lần anh ra Cửi. Địa danh về đất nước đến với Phong trong sách vở, và lời kể của thầy cô giáo. Nó xa xôi và huyễn hoặc. Ký ức của một cậu bé sinh ra trong làng quê nghèo càng thi vị hóa và nuôi những khát vọng. Chỉ là khát vọng thôi, vì chiến tranh đã ập tới dữ dội. Phong chẳng còn kịp chờ đợi kết quả điểm thi tốt nghiệp năm ấy và nhập ngũ. Qua câu chuyện của Nhàn , Phong biết có một thời gian bạn anh đã đi bán kem, bán lạc rang. Đầu Nhàn đội chiếc mũ cói, vai khoác chiếc bị, tay cầm vài ba bao giấy quấn tròn lại như cái phễu. Những hạt lạc tẩm húng lìu thơm nức mũi, thèm rỏ dãi mà chẳng dám đụng vào một hạt, sợ thâm vốn. Mỗi gói một hào. Đồng tiền ít ỏi thu được mỗi ngày của Nhàn góp vào tiền lương quét rác ba mươi ba đồng một tháng của mẹ để nuôi một đàn em bốn đứa. Nhàn bỏ học ngay từ năm lớp bảy. Rất muốn họp tiếp nhưng biết lấy tiền đâu mà ăn học.
- Cậu không thể hình dung ra nổi những đêm tháng chạp quê tớ - Một lần, Nhàn kể - Cứ gọi là rét quắt tai. Gió mùa đông bắc thổi ào ào từng cơn quét dọc những con đường khuya vắng bóng người. Rét buối như vậy mấy ai đi chơi phố? Tớ ôm chặt cái bị vào bên nách cho ấm và cất tiếng rao: “ Ai lạc rang nóng giòn đây …!”
- Ai mua lạc cho anh vào lúc ấy ? – Phong hỏi.
- Có chứ. Những cặp vợ chồng khó ngủ. Cũng có khi là một đứa trẻ con thức giấc và nghe tiếng rao lạc rang tự nhiên đòi ăn quà vặt. Cũng có khi là một ông xích lô, ngồi gật gù chờ chuyến tàu xuôi Vinh hai giờ sáng đón khách. Ông ta mua lạc và nhâm nhi với cút rượu. Ròng rã ba năm trời tớ mới xin vào làm công nhân ở một công trường xây dựng, rồi tớ lấy vợ…
Bây giờ Nhàn nằm đấy, bất động như một cái xác chết. Con người ấy đã cùng với Phong tham gia vài chục trận đánh lớn nhỏ và nhiều lần đi qua cái chết.
Còn ai nữa ngoài Nhàn đã đến với anh ngày nghe tin Tâm hy sinh, và là người bạn duy nhất hiểu được tình yêu của anh với Tâm trong những ngày họ sống ở vùng giáp ranh. Hai mươi bốn tuổi đời, Phong mới được nêm trải vị ngọt của tình yêu với một cô gái làng Liễu Thương. Tâm là trinh sát của thành phố. Quan hệ của họ được giấu kín. Cuộc chiến đấu mỗi ngày thêm ác liệt. Thương nhau, quý nhau mà không dám hứa hẹn. Không ai dám đoán chắc rằng mình là kẻ gặp may trong chiến tranh. Một trái mìn nổ, một trận phục kính của địch ở làng, những hiểm họa luôn rình rập người lính giải phóng sống kề cần với địch ở vùng giáp ranh tranh chấp.
Nhàn khẽ cựa quậy đầu và mở mắt.
- Cậu vẫn còn thức hở Phong ? Đi ngủ đi một chút, cứ mặc kệ tớ.
Phong nhìn vào con mắt còn lại của Nhàn. Con ngươi khẽ đung đưa lay động trong quần hốc tối.
- Anh đừng lo cho tôi. – Phong bảo – Anh có bớt đau không ?
- Đau ở bụng, ít thôi… Nhưng có lẽ tớ không sống nổi đâu Phong ạ.
- Anh đừng nghĩ quẩn. Mai lên tới chỗ Nhô. Cậu ta sẽ mổ cho anh.
- Đây là đâu nhỉ ?
- Chân Đồi Dẻ, sắp tới địa đạo 310 rồi. Mỹ càn thành thử phải đi đường đạp.
- Cậu với anh em vất vả quá, tớ không đành lòng.
- Ơ hay… Chừ là lúc anh không được lo nghĩ chi nhiều…Anh cũng nên đừng nói nhiều.
- Cậu cho tớ miếng nước.
Phong cho Nhàn nhấp vừa đủ khỏi khô cổ.
Nằm được một lúc, Nhàn khẽ thở dài.
- Nghĩ mà buồn quá Phong ạ…Vậy là “K ta” không còn nữa. Mình coi như đồ bỏ. Có sống cũng không còn hy vọng trở về đơn vị. Chỉ thương cậu và anh em…Nay mai rồi sẽ ra sao đây.
Phong cầm bàn tay Nhàn khẽ lắc đầu.
- Tôi cũng buồn chớ. Buồn phát thúi ruột, thúi gan. Cõ lẽ những người lính như chúng mình, đã từng sống chết với tiểu đoàn ai cũng buồn. Ông Triều, ông Đang cũng buồn. Buồn mà không nói ra được. Mệnh lệnh của Quân Khu, của Tỉnh ai cưỡng nổi. Và xét cho cùng ông Thái Long có lý. Tình hình xã và huyện như vậy. Lực lượng của họ yếu thcwj sự. Mà thôi, anh đừng nói tới chuyện đó nữa, tôi khóc mất. Đời lính của tôi gắn bó với tiểu đoàn này đã bảy năm nay. Gần ba trăm quân bổ sung năm 1963 đến nay tính còn lại chưa tới hai chục người. Kẻ bị thương, người hy sinh. Mấy đợt quân kế tiếp, cán bộ, chiến sĩ cứ hao hụt dần. Anh thử nghĩ coi, chuyến ni về xã về huyện tôi e tiêu hết. Tôi không phải là đứa sợ chết nhưng tôi tiếc thương cho cái thanh danh của “K mình”.
- Biết vậy…Nhưng sao cưỡng nổi?
Phong định vất củi thêm vào bếp. Nhàn cản anh.
- Thôi khỏi cần, mình không thấy lạnh.
Họ im lặng một lúc lâu nhìn bếp lửa bây giờ chỉ còn là một đống than đỏ. Chốc chốc lửa hừng sáng, lóe lên chập chờn. Cách họ vài ba trăm mét đã là cây rừng vây bủa. Tiếng con suối chảy róc rách. Bóng tôi trùm phủ mịn như nhung được điểm xuyến bởi những mẩu lân tinh sáng lấp lánh trên nền đất ẩm ướt. Tiếng tắc kè kêu than buồn bã.
Chợt Nhàn thở mạnh – Phong nhìn lên. Con mắt còn lại của Nhàn đẫm lệ.
- Tớ chết mất – Giọng Nhàn nhọc nhằn – Chưa bao giờ tớ nghĩ rằng mình phải rời bỏ cây súng, rời bỏ đơn vị sớm như thế này.
- Anh ráng ngủ đi chút ít- Phong khuyên – Lát nữa tôi đánh thức mấy đứa dậy đưa anh đi.
Chỉ thấy Nhàn khẽ lắc nhẹ đầu và quay mặt vào khoảng tối.
*
* *
Nhàn mất sau khi ca mổ của Nhô tiến hành được ba giờ. Vết thương nhiễm trùng nặng. Ruột bị thủng ba đoạn. Nhô ngồi thẫn thờ trên chiếc ghế băng ngay cạnh bàn mổ, gương mặt anh trắng bệch dưới ánh sáng của cây đèn pin treo lơ lửng phía trên đầu dùng làm đèn mổ.
Phong bắt gặp cái nhìn tuyệt vọng của Nhô. Anh không nói gì lặng lẽ quay ra. Trên nhà trống vắng. Những chiến sĩ đại đội 1 đã ra mé sau đồi đào huyệt.
Vẳng lên tiếng cuốc bập vào lớp đất bình bịch, nặng nề ở mé sườn đồi.
“Vậy là vĩnh viễn mất Nhàn ?” Phong chua xót nhìn bầu trời trĩu nặng những tảng mây. “Chả lẽ cuộc đời một con người kết thúc vậy sao?”. Nhưng với Nhàn, nó đột ngột quá.
 
I

iloveyou247_tintin

Dường như là sự phi lý. Phi lý đến trơ tráo. Một quả đạn lạc vu vơ, riêng Nhàn gánh chịu. Hai ngày đạp đường khốn khổ, vừa lo gặp địch phục kích, vừa phát cây tìm đường. Đêm qua Nhàn vẫn còn nằm bên anh rỉ rả chuyện trò. Hình như Nhàn đã tiên định thấy cái chết, còn Phong không tin. Bàn tay vàng của Nhô hy vọng sẽ giúp Nhàn qua cơn hiểm nghèo. Bây giờ, Nhô cũng chịu, đành khuất phục số phận. Lúc tiêm thuốc gây mê, Nhàn đã kêu: “Phong ơi, cho B1 vòng trái… Diệt ụ đại liên… Cường ! Bay nện cho tao một trái B40 vào gò mả kia”. Rồi Nhàn nhắc tên mấy đứa con, giọng Nhàn ngọng líu. “ – Phải, anh ấy đã nhớ đến trận đánh về Văn Xá bữa trước!...”
- Anh Phong, anh Nhô kêu anh. – Cô Hoa y tá chạy ra chỗ anh Phong đang ngồi, gọi.
Anh quay lại nhìn cô y tá trạm phẫu nửa như buồn, nửa như trách móc.
- Chuyện chi vậy ?
- Huyệt mấy anh đào xong rồi. Anh vô giúp anh Nhô một tay đưa tử sĩ ra.
Xác Nhàn đã được bó gọn gàng trong tấm năng ni-lông màu xám. Nhàn chỉ để lộ ra mỗi khuôn mặt cũng được đậy bằng một miếng vải màn. Phong cúi xuống ôm bạn lên tay. Thân thể Nhàn nhẹ bẫng. “Răng lại là tử sĩ?”. Vừa bwocs anh vừa soi khuôn mặt Nhàn, hiện mờ ảo sau lớp vải thưa, không rõ đường nét. Giây phút ấy chẳng hiểu sao anh lại nhớ tới cái phố Trần Đăng Ninh ở đất Thành Nam xa lắc. Anh hình dung ra cả những ngôi nhà lá, nhà ngói đứng kèn nhau, nóc nhà lởm chởm những cây tre, cây nứa giằng néo chống bão. Những ngôi nhà ba bốn tầng, tường tróc nham nhở vì miểng bom chém vào. Kỳ lạ thay, anh nghe được cả tiếng còi tàu hỏa kéo lên rảnh rót, đơn điệu giữa đêm khuya. Tiếng còi tàu bị trùm bở màn đêm. Thành phố đêm chiến tranh mất điện. Anh sáng duy nhất là ngọn đèn hiệu của nhân viên nhà ga. Và tiếng đứa trẻ rao “ai lạc rang nóng giòn…đây”…
Đôi chân Phong muốn khuỵu xuống . Nhô phải đỡ vội lấy xác Nhàn.
Sáu người chiến sĩ đại đội một, vẫn tiếp tục moi đất cho lỗ huyệt sâu thêm. Đấy là vạt đất bên sườn đồi, đã có năm sáu ngôi mộ của những người chiến sĩ hy sinh từ trước. Mộ được chôn lẩn quất dưới gốc những cây lá nón phủ xanh rợp. Tấm bia ghi tên người chiến sĩ, quê quán, cắt ra từ những thùng sắt tây đựng lương khô. Dòng chữ đục bằng đinh xuyên thủng lỗ. Một vài tấm bia đã ngả màu tróc sơn nhưng tên tuổi liệt sĩ vẫn dọc được rõ ràng. Tấm bia nào cũng có ngôi sao vàng đóng khung trong một vòng tròn.
Cuối cùng thì tảng đá nằm sâu trong hố đất cũng bị lưỡi xẻng Mỹ đánh bật lên. Phong bước xuống đỡ Nhàn từ tay Nhô đặt xuống. Anh lật tấm vài màn nhìn gương mặt bạn lần cuối cùng rồi mới đặt những cây lèn chặt cho đến khi phủ kín xác.
“- Vĩnh biệt…Vĩnh biệt anh, Nhàn ơi !”.
Phong nói thành tiếng. Và anh không dám nhìn những người chiến sỹ đang đứng vòng quanh chờ để lấp đất. Anh ngồi lặng đi bên cạnh Nhô, nghe tiếng đất đổ rào rào xuống lớp cây đặt dưới mộ, lặng im hút thuốc, đôi mắt trầm ngâm tư lự. Cái nghiệt ngã của chiến tranh ít khi làm ai khóc nhưng trái tim người lính nhức nhối, vò xé họ từ trong cõi thẳm sâu. Không, không thể tính bằng nước mắt . Họ cùng nhau chia từng bát cơm, hụm nước, điếu thuốc, hòa với nhau trong niềm vui, nỗi cực nhọc trong căn hầm chật hẹp kể những câu chuyện tầm phào cho qua cơn đói, tự hồi ức về những vùng quê của riêng mỗi người và bao giờ cũng thấy đẹp đẽ, thân thương. Rồi họ giã từ nhau, kẻ bị thương, người hy sinh. Những tình huống của chiến tranh không bao giờ có thể đoán trước. Lỗi lầm, khuyết tật sẽ được bỏ qua nếu anh ngã xuống ở chiến tuyến rong tư thế của người cầm súng. Và anh sẽ sống tươi đẹp trong ký ức của người còn lại.
Vẳng lên tiếng xẻng chà xát vào lớp đất đá. Đất trong hố sâu từng lúc dâng đầy. Phong có cảm giác như thi thể Nhàn đang tan ra hòa vào đất đai, cây rừng, hóa thân thành ngọn gió đang thổi dạt dào trên tầng lá cây cao, để rồi tan biến vào cái vòm trời xanh mênh mông bây giờ đang tối dần lại.
“Nhàn vẫn còn sống – Phong ngẫm nghĩ – Anh ấy sẽ sống mãi trong tâm trí những người lính “K mình”. Sống với đất đai cây rừng bên sông Bồ.. ! 0- Chỉ mong sao, anh ấy hiểu và tha thứ cho mình – Phong nghĩ chua chát – Mình sai, mình đã đấu ông Thái Long tới nơi tới chốn. Sẽ có nhiều người trách mình. Đành nhẽ, nhưng dứt khoát tôi không phải kẻ tháo lui, đào tẩu khỏi cuộc chiến đấu, Nhàn ạ. Cái chết – nếu số phận dành cho tôi như đã dành cho anh, tôi cũng sẽ chấp nhận nó một cách thanh thản, nhẹ nhõm miễn là trong tư thế của người lính “K mình”. Nhưng tôi không thể ...”
- Cậu cho tôi một điếu... – Phong bảo Nhô.
Nhô đưa cho Phong cả bao thuốc lá Paman. Phong lập bập châm lửa mãi mới cháy. Mồm miệng anh đắng chat. Anh không còn nhận ra cả cái vị ngọt và thơm của điếu thuốc lá Mỹ.
Ngôi mộ đã thành hình. Mọi người ngồi xúm quanh chỗ Phong và Nhô, châm thuốc hút. Thản “ Cối” nhổ nước bót vào lòng bàn tay, xoa xoa.
- Có cần đục bia không anh Phong ? – Thản hỏi.
- Thôi để mai cánh tớ làm. – Nhô đỡ lời. – Các cậu ra sông tắm rửa đi. Giờ thì không ngại máy bay đâu, nhưng cũng đừng ồn ào. Coi chừng thám báo phát hiện nó gọi pháo quật xuống đây thì *****.
*
* *
Tưởng mưa, nhưng trời chỉ nổi cơn giông. Một lúc sau, trăng mọc. Ánh sáng giải vàng trên bãi đá chạy dọc sông Bồ. Ban đêm, nhìn dòng sông như nới rộng ra. Những tảng đá xếp ngổn ngang, nổi gồ trên mặt sóng, tròn lẳn tựa như lừng bầy voi rừng.
Phong đã nằm ở tảng đá từ lúc trăng chưa mọc. Ngày sau lúc ăn cơm, anh nhắc nhở mấy cậu chiến sĩ chuẩn bị cơm văt, cơm ăn cho sáng mai để kịp trở dậy đi sớm. Đường về cố gắng rút ngắn trọn một ngày. Không phải cáng thương, mỗi người gùi hai chục ký gạo, chắc chắn sẽ đi nhanh hơn. Anh mắc vong nhưng chưa đi nghỉ mà ra bãi đá nằm hóng gió.
Dòng sông Bồ ngăn đôi phân tuyến. Bên kia sông, chỉ cách hai trăm mét đã là đất Phong Điền. Đi bộ chừng dăm tiếng đồng hồ là tới Khe Lu, Khe Trăng. Và đi bộ chừng dăm ngày là tới Hang Đá, Dốc Chè, Đèo Bông và thọc ra đường tuyến, vượt lên rừng thông, đất Lào. Vùng hậu cứ của Quân khu, trục chính của tuyến đường ruột Trường Sơn chạy từ Bắc vào Nam. Năm trước đi nhận tân binh, Phong đã có dịp nhìn thấy con đường tuyến và những chiếc xe Zin, xe Gát chạy trên đường. Anh nhìn không chán mắt các dãy nhà kho chứa gạo, đạn, quân trang ở binh trạm 64 và anh mới hiểu rằng sức người, sức của cả nước dồn cho mặt trận thực phi thường.
Nhưng Phong không thể vượt sông Bồ.
Trách nhiệm của một đại đội trưởng, buộc anh phải tổ chức cho đơn vị hoàn tất việc học tập chính trị, và biên chế từng người phân bổ cho đội biệt động huyện, về các xã làm du kích. Ông Thái Long, ông Triều và ông Đang chưa giao nhiệm vụ chính thức cho từng người trong ban chỉ huy đại đội 1, nhưng anh biết họ định đưa anh về làm trợ lý tác chiến cho huyện đội, Hảo sẽ được đưa về làm chính trị viên đội biệt động huyện. Tam làm phó.
Ông Thái Long giận Phong và đánh mất luôn cả tình cảm vốn có với anh. Những buổi thảo luận nghị quyết, anh đã không tiếc lời chỉ trích phương án giải tỏa K10 về địa phương. Trong thâm tâm, anh cho phương án ấy là hạ sách, là sự thụt lùi trong chiến lược tiến công. “Thực tiễn chiến trường đòi hỏi phải như vậy ! Các đồng chí không thấy cái khó của cấp trên”. Giọng ông Thái Long sau cùng đã dịu lại, bớt vẻ căng thẳn. Phong vẫn chưa chịu. “ – Thì chính cấp côi cũng không thấy cái khó của chúng tôi – những người lính chủ lực – bây giờ đi làm anh du kích. Một thứ du kich nửa mùa, không biết mặt mũi người dân, không rành đường ngang ngõ tắt. Đánh chác cái khỉ khô chi. Chỉ đụng hoài ba thằng nghĩa quân dân vệ, mà nào có ra trận đánh. Cắc bụp vài ba loạt AK, bắn một quả B40 rồi rút. Xin lỗi đồng chí Thái Long, tôi gọi là rút cho lịch sự, chớ thật ra là chạy. Không có, pháo địch đập cho tối mắt tối ũi, Thử hỏi cả năm nay xã, huyện có bao giờ tổ chức đánh được một trận cho ra hồn. Bụp xẹt…bụp xẹt. Hết vấp mìn, tới gặp phục kích.
Anh nghe thấy có tiếng đáp trên lớp soi, rồi tiếng Thản “cối”.
- Ngồi đây, anh Thược.
Chỗ Phong đang nằm được che khuất bởi một tảng đá cao. “- Mấy đứa ra đây mần chi?”. Anh im lặng không muốn khuấy động câu chuyện của họ. Thược là trung đội phó trung đội 2, người quê ở Phong Điền. Cậu ta gia nhập quân giải phong từ sau Tết Mậu Thân khi bộ đội tràn về Huế.
Giọng Thược nhát gừng:
- Hai đứa bây tính đi thiệt hả Thản?
- Tụi em đi. Anh bảo ở lại làm gì? Hay hớm chi về với mấy ông bà ở xã. Lính “K mình” sống ở vùng giáp ranh với họ hai năm nay đã cực nhọc nhiều rồi. Giờ tụi em lại về làm du kích cho họ thì khỏi phải chê ? Sao “ ông anh” , có tình liều với tụi này không ?
Im lặng một hồi lâu, Thược nói:
- Thôi bay đi đi. Tao không mần rứa được. Tao là đảng viên.
- Ôi dào… Quan trọng cái gì việc đó. Đảm bảo với ông anh, về được sư đoàn Hương Giang chỉ cần đánh đấm mươi trận cho kha khá vào, ai mà không kết nạp ông anh vào Đảng…Vả lại, mình có phải thằng “B quay” đâu mà sợ. Mình vẫn là lính đánh giặc kia mà. Có về chủ lực của quân khu, mới ra hồn thằng Lính. Đánh đấm như “K mình” lãng xẹt. Bây giờ về làm du kích càng khốn. “Một là xanh cỏ hai là đỏ ngực, tụi em tính vậy đó, anh Thược.
- Tao không cản hai đứa mi đi nhưng tạo ở lại, vậy thôi.
- Tùy anh, tụi này đâu có ép. Còn thuốc đó hay không anh Thược?
- Còn đây. Bữa tê ông Đang cho tao một lăn.
Phong nằm không động cựa, lắng tai. Mùi thuốc rê nặng, thơm vương theo gió bay tới chỗ anh nghe phát thèm. Nhưng anh không thể xuất đầu lộ diện ra lúc này. Sự thể diễn ra quá bất ngờ. Thản và Tân định đánh bài chuồn, bỏ đơn vụ. Rõ ràng hai đứa muốn về với sư đoàn 324, chủ lực quân khu. Chợt giọng Thản vang lên.
- Anh Thược này. Mai sớm anh Phong hỏi, anh nói không biết tụi em đi lúc nào nhé. Em viết lá thư để lại dưới đầu võng anh Phong. Em cũng đã kể rõ mọi sự tình cho anh Phong, anh Hảo hiểu hoàn cảnh của hai đứa em… Kẻo các anh ấy lại trách là đứa ăn ở bạc. Khi anh về với tiểu đoàn, đại đội có ai hỏi, nhờ anh bảo thẳng là em với thằng Tân tìm đến đơn vị chiến đấu chứ không phải là những đứa đào ngũ, nghe anh Thược.
- Được rồi, bay khỏi lo chuyện đó. Phao bơi chúng bay còn tốt không đó ?
- Tốt – Tân đáp.
- Sang bờ bên kia có nhớ đường không ?
- Nhớ…Lo chi anh Thược. Đường ở chân mình chứ ở đâu. Chỗ nào súng nổ lớn là chúng em mò tới. – Thản bảo. – Chút nữa quên. Hôm kia đi em bỏ cái áo dài phơi trên giàn bếp. Anh lấy đưa cho anh Cường nghe, chả áo của anh Cường bữa đi đánh bãi ngụy bị gai cào rách. Em đã hứa cho anh Cường chiếc áo ấy.
- Được tao nhớ. Thược khẽ gật đầu. – Thôi hai đứa bay đi đi…Khuya rồi đó. Tao tiễn chân một đoạn.
Phong nhỏm dậy. Anh nhìn theo ba bóng người chiến sĩ đi theo bãi đá xuống sông. Thản và Tân đeo gùi, khoác AK. Thược đi sau cùng dáng người thấp, gầy, mặc chiếc áo xuân hè rộng thùng thình gân che lấp chiếc quần đùi. Trăng tãi vàng trên bờ sông vắng vẻ. Đi đến sát mép nước, họ dừng lại. Thản và Tân mở gùi lấy ni lông buộc phao.
Chỉ thấy thược khẽ gật đầu và ngồi xuống tảng đá ngay sát mép nwocs. Phong rời chỗ nấp, tiến ra ngoài sông cách chỗ Thược một đoạn. Vạt lau che khuất anh. Thản và Tân đẩy chiếc phao ra xa bờ. Chiếc phao nổi lập lờ. Hai khẩu AK ghếch nòng lên cao. Nước sông chảy xiết, chẳng mấy chốc đã cuốn hai người xuôi xuống dưới một đoạn. Họ chỉ còn là hai chấm đen giữa mặt sông sáng bạc.
Thược đứng lên, tần ngần một lúc rồi mới chậm rãi quay trở lại con đường đi lên trạm phẫu Nhô.
Phong không rời mắt khỏi Thản và Tân. Anh muốn gọi to hai tên người chiến sĩ của mình, nhưng không được. Hai cái bóng đen ấy giờ đã nhòa vào dãy núi đá trùm phủ xuống mặt sông đen sẫm ở phía bờ bên kia.
 
I

iloveyou247_tintin

Phần V

Địch chốt ở chân Dốc Mồng. Đoàn người rồng rắn kéo nhau đi đồng bằng quay trở về hậu cứ nằm dưới chân Động Ngang.
Buồn nhất là cái cảnh đi đồng bằng bị địch chốt chặn cửa rừng khồng về lọt dưới dân. Bao nhiêu dự tính tiêu tan kể cả những ước muốn nho nhỏ, mua vài ba sắp thuốc, kiếm mớ rau củ cải, củ kiệu lên nấu canh vào bữa sớm mai. Từ ngày địch xây dựng Hòn Vượn thành một cứ điểm phòng thủ mạnh, chặn giữ tuyến bắc Huế, con đường về đồng bằng quanh qua eo Dốc Đu, Dốc Cát coi như bỏ. Trên đồi Đất Đỏ, địch luôn có quân canh giữ đồng thơi kiểm tra ngặt cánh thợ rừng từ dưới các làng kéo lên chặt cây, bứt lá non, mây song. Địch sợ đồng bào tìm cách bắt liên lạc với “Mặt trận”. Hậu cứ cũ của huyện nằm trong đồi Tranh bị địch phát hiện đưa lính vào càn. Chúng đốt trịu những căn nhà lợp bằng lá nón và đặt mìn giật sập hầm. “Cha con” thêm một đợt chạy càn, đào hầm. Hậu cứ khu B nằm ở sườn phía Tây dãy Động Ngang. Cách Hòn Vượn không đầy ba ngàn mét đường chim bay. Vị trí mới khá bất ngờ với địch và tránh được pháo bắn thẳng. Những con đường trở về đồng bằng xa thêm rất nhiều cho những đội công tác khi phải đi về các xã nằm ở phía đông đường quốc lộ và các xã dọc theo bờ nam sông Bồ. Nửa năm nay, cán bộ chỉ đạo các xã vùng sâu thường phải ăn gạo nhờ, móc nối các cơ sở nhờ ở các xã bạn nằm ở phía tây đường lộ để chỉ đạo phong trào, nắm tình hình một cách gián tiếp.
Con đường qua Dốc Mông mới mở. Nhiều đoạn lội qua khe, vượt qua những bãi sình lầy, lau lách rậm rạp. Muốn tới cửa rừng họ phải đi gần hai tiếng, có những đoạn đi trên triền đồi trọc, phơi lưng ra trước vọng quan sát của địch ở Hòn Vượn. Sớm muộn tụi địch trên đồi sẽ phát hiện ra tuyến đường mới, nhưng hiện thời những tay trinh sát đạp đường của huyện chưa khắc phục nổi. Đơn vị nào cũng cần có gạo ăn, có gạo dự trữ cho mùa mưa bão sắp tới. Và việc trọng yếu nữa là nắm các cơ sở để theo dõi hoạt động của địch đang ngày một gia tăng khắp các thôn làng trong chiến dịch bình định của chúng.
Cường đi sau cùng đội hình hành quân của xã Y, và cũng là người đi sau cùng của đoàn quân hỗn hợp kéo về đồng bằng đêm nay. Chiếc nhọt mọc ở bắp đùi căng tắc, anh ráng đi nhanh cho kịp với mọi người, những xem ra càng đi càng đuối . Cường té liên tục. Có lúc cành cây vô ý chọc vào cái nhọt đã được băng kín. Đau thấu óc. Đến lúc leo Dốc Mồng , Cường tụt lại phía sau xa. Đường về hậu cứ còn chừng bốn mươi phút đi bộ. Anh ngồi bệt xuống vạt đất ngay dưới gốc mấy cây sim và thở dốc. Quanh chiếc nhọt, máu đọng bầm tím, nhức nhối. Buổi sáng Cường đã thử khêu, chỗ đau tứa máu tươi. Nhọt hãy còn non và bây giờ hành anh bằng một cơn sốt. Ngồi trên sườn đồi Cường nghe rõ tiếng chân người lội lõm bõm ngược Khe Dứa mỗi lúc một xa dần.
Chưa tới sáu giờ chiều, trời mùa hè vẫn còn sáng.
Lác đác có vài trái sim chín nằm lẫn vào giữa vạt lá xanh. Cường nhón người lên chực hái một trái sim chín mọng nhưng cái chân đau nặng như chì không nhấc lên nổi.
Không gian yên tĩnh quá. Yên tĩnh tới bất ngờ, tựa hồ như anh lạc vào giữa một đồi trung du nào đó chứ không phải đây là chiến truyến đang xảy ra cuộc đụng độ dữ dội. Vòm trời xanh có những dải mây trắng mỏng bay ngang. Tuyệt nhiên không hề có tiếng súng hoặc tiếng máy bay. Lũ trực thăng và tụi trính sát OV.10 đã rủ nhau chuồn về căn cứ. Cường lắng tai nghe, anh còn nhận ra tiếng sáo diều, kêu nhỏ thôi, vọng tới. Không thể tìm ra bóng dáng chiếc diều sáo ở phía xa chân làng xa kia. Rặng tre kéo thành vệt đen sẫm. Ún lên đó đây, trong làng, ngoài đồng những đụn khói của người dân đốt rơm rạ, cây lạc. Mà cũng có thể tụi ngụy đóng dã ngoại trong các làng hoang đang nấu bữa cơm chiều. Cường như bị trôi đi trong một niềm xúc cảm tự dưng dâng trào trong lòng anh, giữa một vùng quê đang bị chiến tranh tàn phá. Cái cảm giác ấy giống hệt như những buổi chiều năm nào Cường theo gia đình về sơ tán ở một vùng quê ngoại thành. Mỗi buổi chiều, Cường ngồi hàng giờ nhìn ánh hoàng hôn cuối ngày đang lịm tắt dần ở phía tây. Da trời xanh ngằn ngặt. Thời khắc ấy thường là sự gián cách của lũ máy bay Mỹ. Tốp máy bay ném bom ban ngày đã về hạm đội ngoài khơi xa. Lũ máy bay ném bom đêm chưa tới giờ xuất phát. Nằm trên vạt cỏ chỉ mịn màng anh ngửa mặt lên nhìn bầu trời ráng tìm cho được những vì sao mọc sớm. Tiếng dễ kêu rỉ rả nhưng vạng vọng, to hơn cả vẫn là tiếng diều sáo của đám trẻ con làng Sam, làng Bần, làng Gốc. Chốc chốc, bà ngoại anh lại cầm cây sào ra khua đàn vịt vào phá bè rau muốn thả trôi dưới ao. Bà ngoại đã ngót nghét chím mươi tuổi, nhưng đi lại còn vững, hàm răng nhuộm đen như hạt nhãn, đều, chưa rụng một chiếc nào. Mắt bà đủ sức xâu kim, vá áo. Đã dăm năm nay, bà về ở với mẹ anh. Cường là cháu ngoại nhưng bà lại yêu quý anh hơn bất kỳ đứa cháu nội nào của bà. Và cũng từ bà đã khơi gợi trong anh những câu chuyện cổ tích. Trong ký ức sâu thẳm của bà phục hồi cho Cường những hiểu biết về cái thị xã Thái Bình quê hương, ngày bà ngoại mới là cô gái chưa đến tuổi lấy chồng.
Bà ngoại bảo: “- Đường Trưng Trắc xưa đâu có to tát như bây giờ, đường đất nhỏ mọc đầy cỏ dại, hai bên là ruộng và ao chuôm, lơ thơ dăm ba cái nhà. Đi một đoạn mới ra tới phố Tàu, phố Tây. Ma nhiều lắm”. Bà còn kể cho Cường về Vi Văn Định. Viên quan tổng đốc người Tày, quê mạn Cao Bằng. Lão khét tiếng là ác. Có một chị hàng xén đưa hàng sớm ra chợ Bo. Chị ta vô ý kéo đôi guốc mộc trên thềm hè xi măng trước tổng dinh làm lão tổng đốc thức giấc. Lão điên tiết sai lính ra điệu cổ chị hàng xén vào. Không nói không rằng lão bắt chị hàng xén suốt một ngày đội thúng hàng trên đầu đi vong quanh sân xi măng. Trời tháng năm nắng như hắt lửa vào mặt, người đàn bà không được phép dừng lại một phút. Dừng lại, lính nện roi. Vừa làm việc quan, lâu lâu Vi Văn Định lại bước ra ban công ngó xuống nhìn. Chị hàng xén mặt mũi, lưng áo nhớp nhúa mô hôi. Cho đến hai giờ chiều, chị không thể ráng nổi ngã sấp mặt xuống nền xi măng bỏng rát… Buổi chiều, anh chồng hay tin vợ bị quan tổng đốc bắt, nhờ người đưa lễ tạ cho Vi Văn Định, hôm sau chị hàng xén mới được thả về.
Sau này, Cường mới hay, chính vì lệnh cấm để chim bồ câu bay ra ngoài đường của tổng đốc Vi Văn Định, cả dòng họ nhà anh đã rủ nhau chuyển ra đầu tỉnh lập ấp. Cụ tổ của Cường vốn là người nuôi chim câu nổi tiếng, từng đưa chim đi thi trong mỗi kỳ lễ lễ hội suốt một dải vùng ven sông Hồng, sông Trà Lý. Cường xốn xang trong mối trầm tư chợt thức dậy về quê hương. Tất cả bây giờ chỉ còn nằm trong hoài niệm chìm sâu trong ký ức.
Bất chợt tiếng kẻng khua vang trên đỉnh Hòn Vượn phá tan sự tĩnh mịch của buổi hoàng hôn đang bắt đầu phủ trùm xuống núi đồi, thung lũng phía trước mặt. Cường như bừng tỉnh thoát ra khỏi một giấc mơ. Anh không thể ngồi thêm được nữa. Anh nhúc nhắc định đứng dậy, nhưng chân phải của anh tê cứng, nhức ngối.
- Trời, - Cường rên lên khe khẽ, nhăn mặt.
Có tiếng chân người bước gấp gáp và tiếng báng súng va vào cành cây. Cường cầm súng, đề phòng. Lát sau anh nhận ra một bắp chân trắng, ống quần đen xắn quá gối đang đi tới.
- Eng Cường, ngồi chi lâu rứa ?
Hanh rẽ lá lau, bước tới bên anh. Cô nhìn chiếc nhọt tấy đỏ, trách:
- Em đã biểu ở nhà, anh chẳng chịu… Đau lắm hả.
- Cái nhọt cương tức… - Cường lắp bắp, anh tránh ánh mắt của Hạnh.
- Em về gần thấu nhà chẳng thấy bóng dáng anh mô. Hỏi Mộc, cậu ta cũng không biết… Em đoán anh bị đau nên quay lại tìm.
- Cám ơ Hạnh… - Cường nói nhỏ và anh dùng tay chống đứng dậy. Cơn đau kéo đến thấu óc, mồ hôi vã ra lấp tấm trên trán.
- Đưa súng đây, em cầm – Hạnh nói tự nhiên, giọng cô dịu lại không cứng như thường ngày – Anh chịu khó bám vào vài em, Hạnh dìu anh Cường đi.
Bốn năm bước đầu tiên, Cường còn đi cà nhắc. Nhưng rồi chính anh không thể cố, chuột rút bắp chân anh phải nói vội vào một thân cây để khỏi té sáp.
Hạnh đỡ một bên vai Cường.
- Anh Cường phong kiến lắm nghe. Mắc mớ chi anh xấu hổ. Mình là đồng chí với nhau anh còn giữ kẽ vậy… Chưa biết chừng mai mốt về làng đánh nhau lỡ em bị thương, anh bỏ em lại chắc ? Rồi còn ở chung cứ, chung hầm.
- À, đấy là chuyện khác. – Cường chống chế và cảm thấy mặt mình nóng râm ran trước lời chỉ trích gay gắt của Hạnh.
- Khác chi! – Hạnh vẫn còn chưa chịu, vừa dìu anh đi chậm từng bước trên con đường chạy dọc sườn đồi, cô vừa nói. – Anh là chỉ huy, là người đứng đầu trong số bảy đồng chí bộ đội về tăng cường cho xã, anh còn vậy huống chi người khác. Em biết có nhiều đồng chí bộ đội buồn khi phải về xã – ( Cường biết hạnh tránh dùng từ du kích) – cả anh cũng không mấy vui vẻ có phải không?
Cường gượng cười. Câu hỏi ấy đã đặt ra từ ngày cả đại đội 1 đi chỉnh huấn, nhận nhiệm vụ dưới chân Dốc Đoác. Anh chấp nhận sự phân công của tổ chức bổ sung về với xã với cương vị xã đội trưởng. Cùng đi với Cường có thêm sáu chiến sĩ. Bây giờ họ thành những người du kích xã Y, chịu sự chỉ huy của Hạnh, một cô gái ngoài hai mươi tuổi được huyện chỉ định làm chủ tịch xã, thay thế đồng chí chủ tịch mới hy sinh ở vùng sâu cách đây bốn tháng trước.
- Đừng có giấu em, em biết chớ. Xã đang găp khó khăn như rứa… có mấy anh về em mừng hơn bắt được vàng. Các anh lại không vui vẻ, em buồn biết chừng mô.
- Anh em bộ đội không đến nỗi đâu o Hạnh ạ… - Cuối cùng Cường bảo.
Hai người đã bước xuống suối. Hạnh dìu Cường đi từng bước chậm chạp.
Họ bước đi trong sự im lặng kéo dài suốt quãng đường lội dọc Khe Dứa. Anh nhận ra mùi dầu thơm gội trên mái tóc để dài của cô. Bất giác, Cường khẽ thở dài.
- Anh mệt lắm phải không? – Hạnh hỏi.
Anh lầm lũi lê từng bước nặng nhọc, không đáp.
 
I

iloveyou247_tintin

*
* *
Ở trên sạp chú Miên, chị Điều và mấy người bộ đội ngồi ăn cơm – suất cơm dành cho những người đi về làng trở lên ăn khuya. Tiếng muỗng chạm vào đáy bát kêu lanh canh.
Hạnh không ăn, lấy cớ còn no, treo võng lên nằm sớm. Cường sốt cao. Hạnh đưa anh về tới được bến nước. Cô để anh ngồi đó rồi lên nhà kêu mấy người xuống khiêng.
Quân số của xã Y tăng lên đột ngột, đang từ bốn người bổ sung thêm bảy người của bộ đội chuyển về, nhà hầm chưa kịp đào, thành thử một số người buổi tối – Nhất là những đêm không đi đồng bằng – phải nằm liều trên mặt đất. Ở gần địch, đào được một cái hầm thật vất vả. Hạnh bàn với Cường định đào thêm hai hầm kèo chữ A nữa, nhưng chiến dịch đi đồng bằng thu mua gạo cơm cuốn hút cả đội. Sự xuất hiện thêm những người bộ đội trong biên chế của xã khiến cho Hạnh vui, mặc dầu trong sinh hoạt của cô và chị Điều nảy sinh những phức tạp nho nhỏ. Trước đây bộ đội C1 vẫn tăng cường đi với xã được cán bộ du kích xã đưa đường về diệt tụi bảo an, dân vệ, nhưng họ hoạt động trên địa bàn xã với tính cách phối thuộc. Bây giờ, các anh đã là người của xã, nói trắng ra họ đang làm nhiệm vụ của những anh cán bộ phong trào, làm anh du kích khi đánh địch. Việc lo ăn cho từng ấy con người, Hạnh không ngại, cái chính là phương thức hoạt động cho các anh bộ đội. Họ không thông thạo đường ngang ngõ tắt ở các thôn ấp. và một số cậu tân binh chưa hề quen đánh đám với tụi địa phương quân bao giờ. Cô nhận ra rất rõ khoảng cách, nói chính xác hơn là sự chưa ăn nhập giữa những “người của xã” với các anh bộ đội. Vả lại vai trò của một chủ tịch xã – lại là con gái – cô cũng chưa nhập vai một cách thực thụ trong công việc điều hành chung, khi trong tay có được một “đạo quân” mạnh nhất từ hơn 1 năm nay. Chị Điều hơn Hạnh cả chục tuổi, nhưng chưa phải là đảng viên. Chú Miên – anh em bộ đội gọi chú bằng cái tên “ Bố Già” – đảng viên cơ sở mật từ dưới đồng bằng chạy lên rừng, lại bị tật. Địch tra tấn chú, cắt gân ở bàn chân phải. Huyện ủy định đưa chú Miên ra Bắc, chú nhất định không chịu.
“ – Thà chết gửi lại nắm xương tàn ở miệt rừng này, chú cũng đành lòng, Hạnh à”. Chú bảo Hạnh khi gặp cô lần đầu. Lúc biết tin Hạnh, con gái của Ba Hoàng, sẽ về công tác tại xã. “ Chú sinh ra ở đây, chú gặp Đảng ở đây và Đảng trao cho chú cây súng… Giờ chú què cụt không thể theo tụi cháu đánh giặc được, thì chú ở nhà nấu cơm, lo dọn dẹp nhà cửa cho anh em. Địch có đột vô hậu cứ, bàn tay này không nhẽ không bắn nối lấy mươi loạt đạn hả. Chú có hai trái da láng. Một trái chú dành cho tụi nó, một dành cho chú lúc kẹt.”.
Quả thật chú Miên có hai trái US, mới toành. Lúc nào cũng được chú lau chùi bóng nhoáng. Không ai có thể mượn nổi chú một trái để đi đồng bằng. Chú không vợ con. Chẳng ai rõ lý do vì sao.Ông Hai Ngọc – huyện đội trưởng – đã giới thiệu chú Miên vào Đảng. Ngày còn ở làng, chú là cơ sở của đội biệt động huyện. Bữa Hạnh được huyện giao nhiệm vụ chủ tịch xã, cô ngại. Nhưng rồi chính chú Miên là người đã gở rối cho cô.
- Đừng sợ qua mặt chú, con ạ - Ông gọi Hạnh bằng “con” – Anh Hai viết thư cho chú đây nè, - Ông vỗ bồm bộp vào một bên túi áo bà ba, nhưng ông không lấy thư mà rút ra một bịch thuốc rê, tỉ mẩn ngồi vấn một điếu thuôc. Rít liền mấy hơi, ông mới nói tiếp – Con Điều không lanh lẹ. Nó có thể mần cán bộ phụ nữ thì được chớ không làm chủ tịch được. Thằng Châu, thằng Bê, con Luyến hy sinh cả rồi. Ờ , giá như con Tâm còn sống thì nhất định chú kêu ông Hai, ông Đồng cho nó về xã – nhưng chẳng may nó chết. Má cháu cũng mất. Phải chi cô Ba còn sống, huyện sẽ cho người về đưa cô lên núi. Hơn chục năm ni, xã mình mất vãn người. – Chợt chú Miên hỏi Hạnh một câu tách ra khỏi câu chuyện ông đang nói.
- Bữa sang tỉnh con có được gặp ba con không Hạnh ?
- Dạ, có !
- Ba con biểu răng ?
- Ba con hỏi : “- Con muốn ra Bắc học tập hay ở lại?”
- Con trả lời răng ?
- Con biểu: “ Má hy sinh rồi ba. Ra miền Bắc học tập ai chẳng ham, nhưng đi lúc ni gay hung. Ba không ở huyện mình ba không biết chớ, cán bộ du kích thiếu ghê gớm”. “ – Ba biết chớ - Ba cháu cười, mà nét mặt không mấy vui vẻ - Con hiểu vậy là tốt lắm… Như vậy là con quyết về huyện”. “-Dạ con về huyện ba ạ”. Cháu nói rứa. Ba cháu biểu: “-Ba chỉ khuyên con một điều: Làm việc gì cũng phải tính toán cân nhắc cho kỹ. Hiểu địch là hiểu mình, thì bao giờ cũng thắng, con gái của ba ạ”.
Bốn tháng đã trôi qua, công việc tưởng chừng như êm xuôi. Nhưng riêng Hạnh biết rằng, cô chưa làm ăn ngon lành với nhiệm vụ mới. Không phải cô lo cho những chuyến đi đồng bằng, đưa bộ đội về làng xuôi lọt, lúc đi lên, ai cũng có gùi gạo đầy. Cái đích cuối cùng mà cô phải làm là những dải làng xa xanh kia. Ở đó, cơ sở đang vỡ nát, còn điều này nữa, làm sao giữ cho được lòng tin của mỗi người dân Huế vừa mới nhú lên đã bị tắt ngấm trước áp lực của địch sau chiến dịch Mậu Thân, là những người ở lại, sống trong lòng địch, Hạnh hiểu tâm lý ấy là có thật ở đồng bào. Bây giờ là lúc Hạnh và các đồng chí của cô phải trả lời. Nhen củi ướt trong mưa đã khó. Tạo dựng chỗ đứng cho cách mạng và một mạng lưới cơ sở trong lòng dân chúng khả dĩ hoạt động bình thường còn khó hơn gấp bội lần. Hạnh nghe nói ở Quảng Đà, trong Nam Bộ, lực lượng cách mạng bám dễ dàng trong dân để tổ chức đánh giặc. Cái thế đứng cài răng lược như những năm trước đây, ở nông thôn đồng bằng vùng quê Hạnh vào thời điểm này đã mất. Những cuộc càn quét lớn của địch xen dày trên các vùng đất. Thật sự chúng đã làm được việc chia tách đồng bào với lực lượng cách mạng. Cũng có một vài vùng “lõm” da báo nhưng ở cách xa dân chớ chưa nằm ngay trong các ấp. Làm cách chi phá bung thế kìm kẹp của địch đang đè lên các thôn ấp đồng bằng? Hạnh và đội công tác xã Y đang phải tìm cách giải đáp cho huyện câu hỏi đó.
Chao ơi, ước chi chị Tâm còn sống. Chị thông minh tài giỏi, gan dạ chắc hẳn chị tâm sẽ gỡ gối cho Hạnh. Một quả pháo quái ác - ấy là cô nghe lân , một chủ tịch xã nằm chung hầm bí mật với chị Tâm kể lại vậy – đã giết chị. Hạnh vẫn còn nhớ như in vào một đêm, cách đây đã ban mă, chị Tâm và mạ là hai người giới thiệu Hạnh và Đảng Nhân dân cách mạng. Trong căn buồng mờ tỏ của ngọn đèn hột vịt. Hạnh quỳ xuống hôn lên lá cờ đỏ có hình búa liềm và cất tiếng đọc lời thề. Chi bộ Đảng vùng sâu chỉ có ba người: Chị Tâm, mạ và anh Quế. Hạnh là người thứ tư. Cô vẫn còn nhớ gương mặt mạ đêm ấy rất khác. Dường như mạ cô đánh mất vẻ âu yêm, cưng nựng con gái thường ngày. Mạ nghiêm nghị hơn, giọng nói trở nên cứng rắn. Mạ gọi Hạnh là “đồng chí”. “-Kể từ hôm nay, đêm 11 tháng giêng, đồng chí Hạnh là đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng, sinh hoạt Đảng trong chi bộ của tôi. Đồng chí Hạnh cần…” Không khí trong buổi kết nạp thực thiêng liêng. Hạnh vừa hồi hộp vừa có một cảm giác rất rõ rệt giữa cô và mạ từ nay có một khoảng cách. Nó không chỉ tồn tại thứ tình cảm mẹ con thường ngày, mà bắt đầu hình thành nên một quan hệ mới mẻ. Và trách nhiệm của cô thực là lớn lao. Những việc mạ hay chị Tâm giao không còn là sự giúp mạ, giúp chị Tâm nắm tình hình địch trong thôn xã, về Huế chuyển thơ hoặc nhận thơ ở nhà bà giáo Luyến. Từ nay sẽ là công việc, là trách nhiệm của cô, một Đảng viên được Đảng giao nhiệm vụ. Một tai họa đã giáng xuống bất tử. Tên Năm, nhân viện trong cơ quan huyện ủy chiêu hồi. Hắn nhiều lần theo chị Tâm đi lấy gạo biết được nhà Hạnh. Địch tổ chức vây chụp b ất ngờ. Một mình mạ cô chống trả với một trung đội bảo an bằng khẩu AK báng gấp và gần một chục trái lựu đạn US. Ngôi nhà của Hạnh bị thiêu cháy ra tro trong ngày lính quận về, hy vọng bắt sống được những tên “ Việt Cộng” cỡ bự nằm vùng ngày trước mũi quốc gia. Hạnh thoát chết. Hàng chục ngày sau, cô không giải thích nổi vì sao mình lại thoát chết. Do bờ mương có hàng tre gai dày đặc bao phủ hay chính bởi do mạ cô biết tình hình nguy ngập đã mở đường cứu thoát con gái. Gần chục ngày trời Hạnh chui lủi trên đồng, giấu mình trong những bụi gai, dứa dại ở các làng hoang để tìm đường lên núi. Ban đêm, cô ra ngoài đồng hái lượm được cái gì ăn cái nấy. Cô không biết con đường lên xanh. Lối sống hợp pháp đã khiến cô vất vả vô cùng trong những đêm một mình lần mò giữa cánh đồng đầy mồ mả. Tai chưa quen nghe tiếng động để phân biệt địch ta, mắt không biết định hướng đường. Có những lần Hạnh vấp phải tụi bảo an nằm phục ngay ở đầu làng Liễu Nham. Súng nổ dữ dội, cô cắm đầu chạy thục mạng. Hạnh bây giờ mới ân hận những ngày sống bên mạ, cô không chịu dò hỏi kỹ lưỡng lên căn cứ đi hướng nào. Mạ có lần lên trên đó năm 1967 dự đại hội Đảng bộ của huyện. Mạ phao tin với mấy bà quanh xóm là vô Sài Gòn đám cưới đứa cháu ruột. Chị Tâm đã cho người về đón mạ đi. Mạ ở trên căn cứ năm ngày. Một lần hai mẹ con đi chợ, lựa lúc vắng người mạ chỉ cho Hạnh Hòn Vượn. Mạ biểu đường lên xanh hướng đó Hòn Vượn bây giờ là căn cứ giặc, bằng mắt thường, cô nhìn thấy con đường xe ủi cày đỏ lòm chạy quanh từ chân núi lượn vòng lên tới đỉnh. Những họng pháo “một lẻ năm ly” đêm đêm tóe lửa đầu nòng. Tiếng đề-pa vọng về làng nghe rõ. Lát sau dội lên tiếng nổ rất xa, ngả trên núi. Tới đêm thứ mười Hạnh gặp may. Bộ đội “anh Phong” đi đồng bằng bắt gặp cô đang ngồi ở ngay bãi cồn mồ mả đầu làng Văn Xá Trung. Sau lúc biết đích là “bộ đội” đàng mình, nhận ra cả cô Điều, Hạnh òa khóc.
Thấm thoát đã một năm rưỡi, từ ngày mạ mất. Một năm rưỡi, cô thực sự đổi khác. Cơ thể đứa con gái phổng phao và cuộc sống người cán bộ vùng ven ăn sâu vào Hạnh. Bữa gặp lại cô, chú Miên đã phải bật khen:
- Chà …chà… con nhỏ. Cơm gạo cách mạng nuôi mi thật không uổng công nha.
Hạnh cũng cho mình là một người từng trải, dạn dày. Nhất là những ngày gần đây khi toán bộ đội về bổ sung cho xã. Cô bằng tuổi Cường, chỉ kém nhau xuýt xoát vài tháng. Hạnh cố gắng không muốn để cho những người bộ đội coi thường cô, với cương vị một chủ tịch xã.
Chi bộ Đảng xã Y bây giờ đã đủ 3 người. Chú Miên giữ vai bí thư. Bí thư mà lại không đi lại được, không trực tiếp chỉ đạo phong trào, nắm cơ sở nhiều khi cũng kẹt. Nhưng Hạnh không thể làm một lúc hai việc.
- Chị Hạnh chưa ngủ hả?
- Có chuyện chi đó Mộc? – Hạnh nhỏm dậy khỏi võng quờ chân xuống tìm dép.
- Đi bắt ốc! – Mộc đã cầm sẵn chiếc bao cát và con dao Mỹ. Ống quần xắn cao, đi đất – Nếu chị mệt không đi được cho em mượn cây đèn pin.
- Đi hè… Chị em mình cùng đi cho vui. Chờ chị chút nghen Mộc.
Hạnh lội trước. Chiếc đèn pin trên tay cô được bọc kín bằng vải xanh chỉ lộ ra lỗ nhỏ tròn vừa bằng miệng chiếc nón. Con suối chảy ra từ dưới chân Động Ngang, lòng suối hẹp nhiều đá hộc. Những con ốc chỉ to hơn đầu đũa, vỏ đen, cứng bám chặt vào đá. Lũ cua ốc đã bị rượt bắt nhiều lần, nên muốn bắt được chúng phải đi xuôi khe một đoạn khá xa. Hạnh đi trước, tay cầm đèn, tay cầm dao. Mộc đi sau tay cầm sẵn bao cát. Phát hiện những con ốc Mộc nhanh tay lượm. Những hòn đá mọc đầy rêu trơn nhẫy, thỉnh thoảng hai chị em trượt chân, nước bắn tung tóe.
- Gắng kiếm được ít con về mai nấu canh, chị Hạnh.
- Ờ…Ở quên em đã bao giờ đi bắt ốc thế ni chưa, Mộc ?
- Hừ… tụi em đi bắt ốc bươu. Sáng ra đi quanh bờ ao, bờ ruộng ốc nổi lên vớt cho vào giỏ. Vào những ngày mưa rào, rủ nhau đi soi đuốc bắt ếch. Chị đã đi bắt ếch bao giờ chưa?
- Chưa. Mạ chị chẳng khi mô cho ra khỏi nhà vào ban đem. Mà ở đây cũng chẳng ai đi soi ếch ban đêm.
- Sao vậy?
- Sáu giờ tối, tụi ngụy đã ra lệnh giới nghiêm. Ai có việc cần kíp ra ngõ lúc đó, phải mang đèn.
Mộc mải hóng chuyện, trượt chân ngã, chiếc quần ướt sũng nước.
- Chết chưa. – Hạnh giơ cây đèn pin cười trêu.
Đến một đoạn nước sâu, dưới đáy có cát. Hạnh tắt đèn, những con cá xanh thấy động chạy loang loáng, bỗng bắt gặp một vùng ánh sáng dừng lại. Hạnh vung dao chém mạnh. Một con cá nổi phềnh bụng trắng, đứt thành hai đoạn. Cô chém tiếp mấy nhát nữa được tất cả bốn con cá to bằng hai đầu ngón tay. Như vô tình Hạnh hỏi Mộc:
- Anh Cường cùng quê với em à?
- Đâu có. Em ở Phú Thọ. Còn anh Cường ở Thái Bình.
 
I

iloveyou247_tintin

Hạnh khẽ mỉm cười, Mộc không thấy được.
- Anh Cường có vẻ khó tính, phải không… Như một ông già ấy.
- Ư… Anh Cường dễ chịu chứ. Ngày còn ở đại đội, tụi em quý anh ấy lắm. Già chi… Chị không biết chứ, anh Cường có giấy báo vào Bách Khoa, nhưng không đi đại học mà xin đi bộ đội.
Điều này, thì quả thật Hạnh không hay. Mộc nói thêm, có vẻ thích thú:
- Anh Cường làm thơ hay lắm đó… chị Hạnh đã được anh ấy đọc cho nghe bao giờ chưa?
- Chưa…Chưa bao giờ. – Hạnh thú nhận – Chị có nói chuyện với anh Cường toàn là bàn bạc chuyện công tác.
Chợt Hạnh hỏi:
- Về xã em có buồn không Mộc?
- Gì mà buồn. Đã là lính thì đâu chẳng vậy chị !
Mộc nói thêm, giọng thiệt thà.
- Bữa nghe anh Cường và mấy đứa điều về xã Y, em xin với thủ trưởng Triều, theo về với anh Cường.
- Bây giờ bộ đội là người của xã, đói no chi mấy chị em mình cùng chịu. Chị chỉ mong mình mở về được dưới dân, em khỏi lo chuyện đói.
- Chị Hạnh, vậy chị không phải là người Huế? – Mộc hỏi.
- Không. Chị đẻ ở Hương Trà.
- Vậy mà em cứ tưởng…
Hạnh lia đèn pin, phát hiện được ra một con cua đá đang bỏ chạy. Mộc đưa cho Hạnh cầm bao cát và khuân từng viên đá tìm bắt con cua cho bằng được.
 
I

iloveyou247_tintin

Phần VI

Phong là người đứng dậy đầu tiên. Mọi người cũng tản về nơi để gùi của mình.
Những bao gạo năm mươi cân, căng tròn như những con lợn. Có hai lớp bao bọc bảo quản, dù gặp mưa giữa đường cũng chẳng sao. Chặng đường gùi từ kho binh trạm về đến hang đá, đi bộ hơn một giờ. Cõng gạo những người lính vận tải phải đi mất ba giờ đồng hồ. Cánh con trái cứ mỗi người một bao năm chục ký. Phụ nữ ba người hai bao.
Suốt ba tháng nay, đại đội vận tải bước vào chiến dịch vận chuyển gạo đan. Mỗi đại đội phải đảm trách một tuyến, chia ra thành từng cung đường giao cho các trung đội phụ trách. Hôm nay, ngày cuối cùng trong đợt vận chuyển một trăm tấn gạo, đạn của trung đội 2. Họ chỉ đi có một chuyến, chiều nghỉ.
Chờ cho anh em đi hết, Phong mới nhấc chiếc gùi bám theo đội hình. Con đường rừng sau cơn mưa giông đêm qua nhiều đoạn đọng nước lầy lội, in chi chít vết chân dẹp đạp xéo lên nhau. Từ ngày về đại đội vận tải của cụm cánh bắc, học theo anh em trong đơn vị, Phong đã sắm cho mình đôi dây gùi tốt. Miếng nệm lót vai cắt ra từng miếng mút dày. Và một đôi tất. Chỉ khác một điều đôi tất của anh là tất Mỹ, anh lượm được trên bãi ngụy bên bờ Khe Trái. Ngày trước, chỉ khi nào ở nhà trong những tối mưa lạnh, hoặc khi người lên cơn sốt Phong mới sử dụng đến tất. Còn bây giờ, đôi tất trở nên đắc dụng. Năm chục ký hàng trên vai, đường lên dốc, xuống dốc, đi dọc triền khe, chân trần xỏ dép cao su vào những lúc đường trơn không chịu nổi. Những người lính gùi nhà nghề may bao tất vải, ôm gọn bàn chân vừa tránh vắt, vừa khỏi trượt. Bao hàng năm chục ký, sức nặng đè lên đôi vai, đôi chân, mặt luôn cuí xuống đất. Phong mất đứt một tháng trời để làm quen với công việc của người lính vận tải.
Cấp trên đã quyết định chuyển Phong về đơn vị hậu cần, sau khi anh không nhận chức trợ lý tác chiến cho huyện đội…
Lý lẽ của Phong đưa ra: anh sẵn sàng về bất cứ một đơn vị chiến đấu nào của tỉnh, của Quân khu cũng được, nhưng về huyện dứt khoát anh không chịu. Cùng với Phòng còn có Tam, đại đối phó và Hỉ, chính trị viên đại đội 3. Tam cương quyết không ở tuyến giáp ranh mà xin về một đơn vị sản xuất của huyện ở miền Tây, vùng Hang Đá. Hỉ xuống đơn vị đường dây, điều về cụm phía Nam. Ông Thái Long cũng không quên tám trường hợp chiến sĩ, cán bộ tiểu đội đã tự động bỏ đơn vị ra đi. Chỉ riêng ba cán bộ tiểu đoàn – Nhàn đã hy sinh – là về cơ quan tỉnh đội cùng với cậu “ cơ yếu” . Nói chung không khí của tiểu đoàn sau khi đã công bố lệnh giải tán và biên chế cán bộ chiến sĩ về huyện không lấy gì làm vui vẻ. Bàn giao đại đội xong, nghỉ lại hai ngày, Phong khăn gói lên sông Bồ về đơn vị mới.
Dưới con mắt của những chiến sỹ trong đại đội vận tải, Phong như một cán bộ đại đội bị kỷ luật. Anh đọc được ở họ sự nghi ngại vả cả chút coi thường. Dù nghe phong thanh ngày còn ở K10, Phong đã từng làm đại đội trưởng một đại đội chủ công và đã có hai huân chương chiến công.
Đại đội vận tải quân số hơn một trăm người nhưng phụ nữ có tới mười bốn cô. Họ làm nhiệm vụ nấu ăn, y tá và chỉ có một số ít tham gia vào các trung đội gùi.
Chính trị viên đại đội vận tải mới hai nhăm tuổi tên là Thoan.
Anh ta được điều về đại đội vận tải từ ngày đầu tiên mới thành lập. Tuổi chưa cao nhưng vóc dáng bề ngoài của Thoan già trước tuổi. Bộ mặt đầy đặn nhiều trứng cá. Tóc cắt cao luôn chải mượt.
Thoan tự giới thiệu với Phong, đã tốt nghiệp trường sĩ quan ngoài Bắc rồi mới đi Nam đánh Mỹ (!), vào buổi tối hôm anh mới về nhận nhiệm vụ. Hiện tại Ban chỉ huy đại đội vận tải chỉ có hai cán bộ ở nhà.
“Nghe tin ông được tăng cường cho tôi, tôi mừng quá – Thoan thân mật nói – Bốn tháng vừa rồi mình tôi chèo chống. Ông Mạo thì ốm lên, ốm xuống. Cũng may công việc ổn cả. Giờ thêm có ông, hẳn tôi sẽ nhàn được ít chút… Ông đã có vợ con gì chưa nhỉ ?”
“-Chưa”. – Phong khẽ nhếch miệng cười.
“- Về đây, ông nên yên tâm công tác. Anh em đại đội ta cũng thuần cả… Thú thực cũng có vài cậu ba gai, tôi trị thẳng tay dạo vừa rồi, giờ cũng đỡ”.
“-Vâng…” – Phong đáp cho qua chuyện.
“-Cô Nhu đâu rồi nhỉ? – Thoan gọi với ra ngoài – cho tụi tôi ấm nước nào”.
Một tiếng “dạ” vọng lên từ gian nhà bếp. Phong đoán hẳn là cô gái nấu ăn cho bếp đại đội…
Nghe Thoan nói, Phong cảm thấy tưng tức. Anh ta lộ ra vẻ kẻ cả, khoe khoang. Ừ, thì cứ cho là công lao của Thoan đi, những việc gì phải nói ra lúc này, khi anh chưa hiểu đầu cua tai nheo tình hình đơn vị? Phải chăng Thoan muốn trấn áp phủ đầu Phong. Thì cứ việc. Nào anh đã có đòi hỏi gì ở anh ta… Phong nói cho Thoan yên tâm:
- Anh Thoan ạ, tôi sẽ cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình.. Anh đừng lo.
- Tất nhiên rồi… - Thoan nói không kém phần hào hứng – Mình tin chứ. Dù sao cậu cũng là người chỉ huy.
Chỉ ba ngày sau, sống chung với Thoan một nhà, ăn cùng mâm, Phong đã phải ớn anh chính trị viên của mình. Nhìn hai ngón tay Thoan móc trong túi cóc ba lô ra một điều thuốc là “Tam Đảo” – và chỉ một điếu- anh ta phóng cặp mắt tới chỗ Phong:
- Cậu hút thuốc không ?
- Cám ơn, tôi hút thuốc lào – Phong đáp, dù anh là cây nghiện nặng – thuốc lá nhạt phèo, chán lắm.
Phong còn nghiệm thấy, Thoan chỉ hút thuốc lá vào những lúc trong nhà vắng người. Còn lúc họp giao ban đại đội, ít khi nào thấy Thoan chìa bao thuốc cho mấy anh cán bộ trung đội.
Chiếc ba lô con cóc của Thoan, khó ai biết được có những của cái quý gì giấu trong đó. Căng phồng, chật cứng. Hai chiếc ăng gô Trung Quốc, nước mạ ánh lên màu đồng thiếc. Lủng củng, lảng cảng những lọ Sê rê pa, B12, long não, và những gói Poolivitamin, ngoài ra còn có cả hai gói mì chính. Ấy cũng bở một lần, Thoan tìm chiếc lọ đựng đá lửa, anh ta giở chiếc ăng gô ra, Phong vô tình nhìn thấy được. Thoan có một chiếc ấm pha trà bằng nhôm. Những anh lính giải phóng kiêm thợ gò khéo tay đã biến một chiếc bi đông hỏng thành chiếc ấm trà có đủ cả tay cầm, nắp ấm. Chiếc ấm là tài sản riêng của Thoan. Anh ta gói kỹ trong một mảnh dù pháo sáng. Lâu lâu, Thoan mở gùi lấy ra lau chùi chiếc ấm bóng nhoáng.
- Tớ phải đổi ba lạng mì chính cho cánh lính pháo đấy. – Thoan khoe – Cậu coi đẹp “hết ý” chưa. Sau này về, tớ sẽ trưng trong chiếc tủ gương. Chẳng thua gì một cái ấm Giang Tây của anh Tầu. Ấm này pha trà có tới đời cháu nội cũng không hỏng.
Phong nghe anh ta nói, phì cười.
- Sao ông không tính tới một quả bom rơi lạc vào hậu cứ, lại trúng hầm của ông chẳng hạn?
- Hừ, đầu óc cậu vẫn chưa thôi ám ảnh của một anh lính bộ binh – Thoan tỏ ý không hài lòng – Chúng ta là đơn vị vận tải ở tuyến sau… Nhưng cậu nói cũng đúng, ở đời ai biết trước được sự may rủi.
Thoan có một giọng nói to, đĩnh đạc, dù trong nhà lúc ấy chỉ có hai người. Nhưng tiếng nói của anh ta rin rít qua hàm răng đều tăm tắp và nhỏ.
Trung đội hai của Mịch được phân công lên tuyến một, nhận gạo đạn tại kho của binh trạm. Phong đề nghị với Thoan để anh đi với trung đội 2. Gần đường xe, địch hay đánh bom, nên cần một cán bộ đại đội nằm tại chỗ. Trung đội ông Mịch đi trước ba ngày, Thoan cử lên thêm Hải, một cậu y tá của đại đội vận tải, chăm lo sức khỏe cho bộ đội B2.
Suốt đợt vận chuyển Phong ít bỏ buổi nào. Anh đặt chỉ tiêu cho mình, cố gắng đạt năm mươi phần trăm số lượng hàng của đại đội đã khoán cho mỗi chiến sĩ. Tự bản thân anh vượt kỷ lục. Mỗi tuần Phong về chỗ Thoan báo cáo công việc và nhận kế hoạch cho trung đội 2. Những ngày đầu tiên đi gùi gạo, anh chưa quen, bao gạo năm mươi ký đã được san bớt mười ký đè lên đôi vai anh bỏng rát. Một tuần sau, anh đã quen và quất lên vai cả bao nguyên, đi ngon lành, như bất kỳ một chiến sỹ gùi thực thụ. Anh đã tự phá cái ranh giới giữa mình với anh em trong đơn vị của ông Mịch. Dù sao anh vẫn là một con người sống trầm lặng. Phong chưa hề kể cho mọi người nghe những ngày đã sống và chiến đấu ở K10. Anh cọi thuộc về dĩ vãng chỉ thức dậy trong lúc một mình cúi mặt nhìn sát đất trên con đường xuyên rừng, bao gạo tỳ trên vai hoặc những đêm khuya, anh nằm gọn lỏn trong chiếc võng. Đấy mới là cái thế giới sống động của riêng anh: cồn cào mãnh liệt và chua chát.
Có chăng, người hiểu được phần nào tâm trạng của Phong là ông Mịch. Vài tháng nữa, ông Mịch đã bước sang tuổi bốn mưới ba. Té ra ông Mịch đầu quân cùng một lượt với ông Sủng, Cường… Gốc người Ninh Bình nhưng lấy vợ quê Thái Bình, rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Vào tới binh trạm 47, ông Mịch lăn ra sốt. Lên cơn ác tính, tưởng chết. Năm tháng sau, sức khỏe ông Mịch lại hồi phục, quân lực Quân khu đưa ông về đại đội vận tải cụm cánh bắc. Ông được phong cấp hạ sĩ từ ngoài Bắc. Ông là đảng viên nên được đưa lên làm trung đội phó, thay cho một cậu cán bộ khung huấn luyện, đến ngày lên đường vào Nam bỗng lăn ra ốm. Bấy giờ ông Mịch giữ cương vị trung đội trưởng phụ trách trung đội 2. Nghe Phong báo tin một loạt chiến sĩ cùng vào chiến trường với ông như Thắng, Chiến, Tý, Nam, Thành đều ở chung với ông một tiểu đội ngày trước nay đã hy sinh, ông Mịch không khỏi ngậm ngùi.
Vào những buổi tối ở hậu cứ, gần về sáng, sương muối xuống nhiều. Ông Mịch thường dậy sớm thổi lửa, nấu nước trà và gọi Phong dậy uống. Chè rừng ở đây nhiều vô kể. Họ đi lấy về từng bao tải, băm nhỏ, đạp rồi sao khô. Vị chát,hơi hăng nhưng uống quen cũng thú vị. Hai người chuyền tay nhau chiếc điếu cày. Gói thuốc lào Bắc, món hàng nhu yếu phẩm quý giá của tỉnh cấp cho mỗi người lính. Mỗi tháng một gói năm mươi gram. Sợi thuốc vàng ươm, thơm.
- Anh hỏi tôi ngày trước làm nghề gì hả? – Ông Mịch dẩu mồm tuôn ra luồng khói thuốc lào đặc quánh – Tôi nói sợ anh không tin. Trước khi đi bộ đội, tôi ở công ty vệ sinh, làm cái anh chuyên đi “đổ thùng” ở trong các nhà vệ sinh công cộng, hoặc tư gia.
Phong bây giờ mới được nghe tên một danh mục lạ tai.
- Sao lại “đổ thùng”
- Quê anh đồng ruộng làm gì có, nghề ấy chỉ có ở các thành phố, thị xã. Đi lấy phân ấy mà… Tôi đã sống mười lăm năm với cái nghề “đổ thùng”. Mỗi đêm cứ ba người một chiếc xe bò bưng kín, chở đầy các thùng phân… Gớm anh đừng tưởng, vùng ngoại thành trồng rau, không có cái phân bắc ấy là hỏng. Rau tốt lá, tốt củ lại không hại đất… Vợ tôi cùng làm việc ở một công ty, bên bộ phận quét rác. Nói chung vợ chồng tôi đều làm việc ban đêm. Từ năm giờ chiều đến một giờ sáng. Còn lại ban ngày nghỉ, dọn thêm hàng bán nước cho các cháu trông coi… Năm đứa cả thảy chứ ít ỏi gì anh? Túng ra phết – Mịch chép miệng.
- Anh cao tuổi, sao họ vẫn gọi nhập ngũ hả? – Phong hỏi.
- Lứa quân chúng tôi buồn cười lắm. – Ông Mịch giảng giải – một đại đội chia ra hai loại tuổi. Lớp trre cỡ mười bảy, mười tám, lớp già từ ba nhăm đến bốn hai…, nghĩa vụ, tuyển quân, trai tráng các làng đi hết. Bây giờ tới lượt học sinh, cán bộ trong các cơ quan. Có cậu đang học đại học ấy chứ.
Chợt ông Mịch hỏi Phong:
- Anh đi B từ “sáu ba”?
- Sáu ba !
- Chậc … chậc. Đúng là gạo lọt sàng.
Phong nhếch mép cười, nhấc điếu cày rít suông thông điếu. Những giọt nước văng ra cháy xèo xèo trên lớp than hồng. Ông Mịch vê sẵn mồi thuốc, đưa cho anh.
- Về đây, hẳn anh buồn. Đang làm thân con cá vẫy vùng một phương trời, quen đánh đấm uỳnh oàng… Giờ có khác chi bị cho vào giỏ.
- Cũng chẳng sao! – Phong trả lời ông.
- Như tôi bây giờ nhiều lúc nghĩ chỉ thương các cháu ở nhà. Ôi chao ! Những đứa con của tôi. Anh chưa có vợ, con. Anh không thể nào hiểu hết niềm vui của kẻ làm cha. Thằng con đầu của tôi đã hai mốt tuổi. Nó hơn tôi một tuổi quân đấy, chuẩn úy rồi – Giọng ông Mịch tự hào, ông ta cười để lộ ra một hàm răng vàng khè vì khói thuốc – Lính pháo binh. Vợ chồng tôi nuôi được từng ấy đứa, lo ăn học thật là cơ khổ… Chà cái dạo cha con đưa nhau đi sơ tán về nhà quê. Đồng tháng năm, mưa ngang bắp cày, tôi dắt mấy cháu đi mót khoai chiêm, đi bẻ ngô thuê cho các gia đình nông dân. Anh tính lương hai vợ chồng tôi cộng lại chưa tới một trăm, chạy ăn cho con méo mặt. Khó khăn gian khổ vậy, rồi cũng qua khỏi. “Ngẫm ra ông bà mình nói phải: Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
Câu chuyện của người lính già, làm cho Phong thấy đỡ buồn tẻ, ngán ngấm trong những ngày này.
 
I

iloveyou247_tintin

*
* *
Phong bước từng bước, châm rãi. Bàn chân núi chặt lấy thanh gỗ lát bậc leo dốc. Phía trước anh, những người lính gùi vẫn giữ nguyên khoảng cách. Người đi đầu tiên đã lên tới đỉnh. Ai đó hà một tiếng lớn. Cách khoảng thung sâu, phía bên kia dãy núi đá, bầy vượn cất tiếng hú gọi nhau rộn rã, vẳng lại tiếng máy bay trinh sát, tiếng máy bay trực thăng phành phạch ở ngả Coocava, Dốc Chè.
Lên tới đỉnh đồi đoàn người gùi hàng phải dừng lại lấy sức xuống dốc và nhường đường cho một đơn vị bộ đội hành quân cùng chiều với họ.
- Đơn vị mô rứa? – Một người lính vận tảy máy miệng hỏi.
- Bí mật quân sự ông anh ơi. Thông cảm nhé !
- Biết rồi ! Các ông đi nên tụi Mỹ ở Động Chuối, ai còn lạ.
- Đâu có Mỹ ngụy thì tụi này tới đó…
Người lính trẻ vui vẻ cười, nháy mắt ra ý thông cảm.
- Này các ông mới ở tuyến vô, có thuốc lào cho cánh tớ một ít. – Trung đội trưởng Mịch hỏi xin rất hồn nhiên.
Người lính bộ binh tự động tách ra khỏi hàng, ghệ ba lô vào một thân cây đổ, móc trong túi cóc ba lô ra một bịch ni lông có hai gói thuốc lào còn nguyên lành.
- Đây xin tặng “bố già”, chừng ấy tuổi đầu bố không ở nhà đuổi gà cho “bu nó”, còn chui lủi vô đây mần chi cho cực.
- Thằng Mỹ nó hành đấy đồng chí ạ… Ấy chết, đồng chí cho cả tôi thế này, ,ấy gì mà hút?
- Bố khỏi lo. Tụi Mỹ sẽ cung cấp “salem”, “Paman” cho chúng con. – Dưới một bao ruột tượng gạo quấn quanh bụng của người lính, kềnh kềnh khẩu K54, bao da đã lên nước đen bóng.
Ông Mịch tặc lưỡi nói với Phong.
- Chỉ huy của họ trẻ nhể.
Phong không để ý câu nói. Anh chăm chú theo dõi một người lính có bộ râu quai nón không cạo mọc xanh om. Gương mặt cũng còn trẻ. Phong thấy quen quá. Anh ta đang đi từ dưới dốc lên, tay chống chiếc gậy. Bao gạo vắt ngang vai. Khẩu K59, cột dây dù treo phía trước bụng. Ánh mắt của người chỉ huy bắt gặp cái nhìn đầy vẻ chăm chú của Phong, chợt sáng lên.
- Cha trời, Trị phải không đó?
- Ủa, Phong phải … không … Răng cậu ở đây?
Giờ cả hai tay, người bộ đội ôm chầm lấy Phong, Trị thấp thua anh tới nửa cái đầu, người đậm hơn
- Trị đây, chớ còn ai nữa. Răng đứa mô nói mi chết ở giáp ranh Hương Trà. Chúng nó còn đồn đại mi đã cưới một cô vợ du kích, rồi mới chịu chết.
- Bậy hung ! – Phong phì cười.
Anh kéo bạn ra một vạt đất khô, tránh trục đường. Hai người ngồi xuống tảng đá.
- Cậu có bận không? – Phong hỏi.
- Có thể ngồi với cậu được chừng nửa giờ. Tùi mình đi húc nhau với tụi Mỹ ở Động Chuối đây.
- Hiện tại cậu đang ở đơn vị mô? – Phong hỏi bạn.
- E3, binh đoàn Hương Giang…Trước tớ nghe đồn cậu về công trường V, răng chừ lại đi gùi gạo?
- Công trường V còn đâu nữa. Về tỉnh đội… Và mới đây cả đại đội tớ bị phân tán bổ sung cho huyện, cho xã. Mình không chịu, họ chuyển về đại đội vận tài.
Phong kể thiệt thà, không hề có ý định giấu bạn.
- Buồn hả. – Trị nhìn thông cảm – Hay là về bên tớ. Tớ sẽ bảo lãnh cho cậu. Bên ni cán bộ đại đội thiếu hung. Trước khi đi chiến dịch, sư đoàn phải đôn lên một đợt.
Ý kiến của Trị đột ngột, nhưng lại là điều Phong chưa hề nghĩ tới. Ngồi lặng đi một lát, Phong se sẽ lắc đầu.
- Mình chỉ có một ước vọng là được ở đơn vị chiến đấu, trực tiếp chiến đấu. Nhưng đến nước này – Phong lắc đầu tỏ vẻ ngán ngẩm nhưng giọng anh lại quyết liệt – Mình sẽ chứng minh cho họ thấy, mình không phải là thằng hèn. Trị ạ, cảm ơn cậu đã có ý tốt. Nhưng mình chưa phải là kẻ đã mất hết…
- Tùy cậu… - Trị bảo.
Trị mở ba lô lấy ra hai phong lương khô và nửa tút thuốc lá “Điện Biên” loại bao bạc: - Cầm lấy, tớ chẳng có chi. Hai đứa mình sáu năm rồi mới gặp lại nhau chớ ít à?
- Phải, hơn sáu năm… mất vãn cả rồi. Lâu nay cậu có nhận được tin tức chi ngoài quê không?
- Bữa trước trên đường dây 559, mình gặp một cậu tân binh ở cùng xã. Cô Thắm không chờ được mình đi lấy chồng rồi. Cậu biết tin Nga chưa?
- Nga răng? – Phong khẽ giật mình, anh nói thêm
- Mình bặt tin nhà đã lâu. Ở dưới giáp ranh như ếch ngồi đấy giếng, có biết chi.
- Nga cùng học chung lớp 10A của ta đó. Nga tham gia tự vệ, trong trận đánh trả máy bay Mỹ ném bom xuống chợ Chéo bị bom hy sinh.
- Tội ghê ta.
- Ờ… thôi, tớ đi đây không anh em họ chờ nghe. Đánh Động Chuối xong nếu còn sống thế nào lúc trở về, tớ sẽ tìm tới cậu.
Hai người siết chặt tay nhau. Trị xốc lại ba lô rẽ theo con đường của những người lính bộ binh vừa đi qua. Trung đội vận tải cũng đã cuốn đi hết. Trên cây gỗ, bao gạo của Phong tựa vào thân cây. Chưa đặt gùi lên vai, anh đã cảm thấy một sức nặng ghê gớm đang sắp sửa kéo ghì anh xuống đất. Chao ôi, ước gì anh là một người lính xung kích trong hàng quân của Trị! Đánh trả thù cho Tâm, cho những người lính tiểu đoàn 10 đã ngã xuống bên vành đai Huế.
Nhưng bây giờ , anh chẳng khác nào một tay kỵ sỹ mất ngựa, một gã xạ thủ bị tước mất súng. Và nhẫn nhục cúi đầu cam chịu.
Anh nghiến răng, hất mạnh bao gạo lên vai, bước từng bước chậm chạp.
 
I

iloveyou247_tintin

Phần VII

Phong có cảm giác rất rõ ràng, Lý đang nhìn mình. Và làm như vô tình, anh quay lại cầm chiếc vá để chan canh, quả đúng như vậy. Lý đang ngồi trên khúc gỗ tròn, cưa bằng hai đầu dùng làm ghế ngay trước cửa bếp.
- Canh em nấu có được không anh Phong? – Lý hé miệng cười để lộ hàm răng trắng.
- Nói chung là ngon … Phong đáp vui vẻ.
- Răng lại nói chung? – Lý hỏi tò mò.
- Vì đói nên ăn chi cũng cảm thấy ngon miệng.
- Anh Phong thiệt là… Này, anh Tam nhắn anh sang đội sản xuất chơi.
- Vậy hả? Cậu Tam sang đây? – Phong đặt bát xuống bàn.
- Sáng nay anh Tam qua buôn Cu Choi, ghé vô. Anh ấy nhắn anh sang nói chuyện chi gấp lắm – Lưỡng lự một lát, Lý nói thêm – Em cũng có việc qua chỗ anh Tam đó, nhận thư của mẹ em gửi lên.
Phong nhìn cô gái giây lát rồi nói :
- Chiều nay cơm nước xong, anh em ta cùng đi nghe.
- Dạ.
Lý nhanh nhẹn ra bàn thu dọn mấy chiếc xoong và cầm luôn chén đũa của Phong đi xuống suối.
Phong chui vào căn nhà hầm mắc võng…
*
* *
“Dù tôi có muốn quên, thì hình bóng của em vẫn cứ tồn tại trong suy nghĩ của tôi, mỗi lúc tôi phải đối diện với chính mình. Trên từng tảng đá, trên con đường rừng ướt lướt thướt vào những ngày mưa dầm dề, ẩn khuất trong những tán lá cây rừng một gương mặt em, cùng với những kỷ niệm của tình yêu.
Một mùa mưa qua… Hai mùa mưa đã qua.
Tôi vẫn còn nhớ buổi chiều em theo những người lính đại đội 1 đi lượm đồ hộp Mỹ ở Động Tranh. Địch rút, căn cứ Mỹ ngổn ngang những đồ hộp dư thải. Bộ đội sau kỳ đánh Mậu Thân lên rừng gặp trận đói khủng khiếp. Mỹ đang đổ quân càn đường tuyến dọc theo thung lũng A Lưới đến tận Dốc Mèo. Cán bộ huyện xã cũng không sao kiếm đủ gạo ăn ở dưới các làng. Sư đoàn 1 bộ binh ngụy và các đơn vị địa phương quân đang truy quét “ Việt Cộng” lên xanh. Cái đói treo trước mắt tất cả mọi người. Nồi cháo môn vót xanh rờn lõng bõng có vài hột gạo không đủ mùi thơm để át đi cái vị hăng nồng của thứ rau rừng. Chao ôi, vớ được đồ hộp Mỹ, những két hộp hầu như còn nguyên vẹn. Còn gì sung sướng hơn.
Những ngày địch càn rừng, đội công tác của em phải sang ở chung hầm với bộ đội. Căn hầm mái bằng chật chội. Đang giữa mùa mưa, nền hầm lõng bõng nước. Những cây gỗ gác đà to chưa quá bắp chân, thỉnh thoảng lại chuyển răng rắc mỗi khi có đợt pháo bắn hú họa của địch nổ gần. Phải, những đêm như vậy, hai đầu võng cột chung một cây cọc, em lại kể cho tôi nghe về cái làng Liễu Thượng còn sót lại trong ký ức tuổi thơ của em, và về Huế, một thời con gái em đã sống.
Tôi đã ở Huế trong những ngày Mậu Thân. Nhưng tôi chỉ là một chứng nhân cho cố đô vào một thời kỳ bão táp, binh lửa. Những trận phản kích đánh chống càn tụi thủy quân lục chiến Mỹ, có chiến xa yểm trợ nhằm giải tỏa cho Huế. Công việc bận rộn của một trung đội trưởng không còn đủ thời gian cho tôi nhìn rõ từng nóc nhà chợ Đông Ba; vẻ đẹp uốn cong của cây cầu Tràng Tiền, cũng như những tháp mái vọng lâu trong khu Hoàng thành cổ kính. Huế còn lại trong tôi là tiếng đạn pháo, tiếng bom gầm rít trút xuống những mái trường, những góc phố, nơi người lính của tiểu đoàn 10 trụ giữ làm công sự. Là tiếng đạn trung liên, AR15, đại liên xé màng tang của các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ và ngụy phối hợp xông lên lấn từng thước đất. Những bưa cơm ăn chập chuội còn ấm nóng trong ánh mắt vừa lo âu, vừa thúc giục đông việc của các bà mẹ, các chị Huế. Tôi không biết một tên người nào. Những bà mẹ cách mạng chỉ có thể nhận diện qua gương mặt và những vắt cơm còn in hằn dấu bàn tay trong những chiều mưa xuân rây hạt trên phố. Đây đó , vẫn còn sót lại những cành hoa mai, bích đào trong các vườn nhà chưa bị miểng pháo cưa đứt.
Chính là em chứ không phải ai khác, đã hồi phục cho tôi một dáng Huế, với vẻ đẹp văn hiến ăn sâu vào tiềm thức của người dân cố đô. Không gian như ngựng đọng nhuộm vàng bởi ánh nắng thu tàn. Tiếng chuông trong vắt của chùa Từ Đàm ngân lên như hòa tan với tiếng thông reo trên vùng đồi Thiên An, Từ Hiếu… Vào giờ khắc ấy, ở đâu cũng vang lên tiếng chuông thỉnh buổi chiều xen lẫn tiếng mõ khua lốc cốc, rời rạc, cô đơn, buồn bã.
Huế trong mắt em đáng yêu đến từng viên gạch lát hè, đến từng chiếc lá rơi thả nhẹ xuống mặt dòng sông tĩnh lặng, tô điểm cho những cánh áo trắng học trò sau mỗi giờ tan lớp. Những câu thơ, những bài hát dân ca tôi nghe đén não lòng, nhưng ở cửa miệng em lại gây cho tội một niềm cảm khái day dứt, da diết mến thương.
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông. Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”
“Thuyền từ Đông Ba, thuyền qua Đập Đá, thẳng ngã ba Sình. Lờ đờ bóng ngả trăng chênh. Giòng hò xa vọng nhắn tình nước non.”
“Đêm năm canh mơ màng bóng bạn
Ngày sáu khắc nhớ dạng thương thầm
Nào ai nhắc đến tri âm
Lá gan em khô từng chặng, ruột em đau ngầm từng khi…”
Những đêm mưa rừng ở Huế thật dài. Con tắc kè trên cây sấu già chốc chốc lại từng tiếng đĩnh đạc, đã mấy lần rồi nhưng trời vẫn chưa sáng. Văng vẳng phát ra tiếng ngáy của những người nằm dưới hầm. Có một cậu nào đó nói mê. Thỉnh thoảng em lại hỏi tôi.
- Anh Phong đã buồn ngủ chưa?
- Chưa…chưa. – Tâm cứ kể chuyện nữa đi.
Làm sao tôi có thể ngủ được với những câu chuyện của em, tuổi thơ của em về một vùng đất mà tôi hằng ngưỡng vọng. Nó xa lạ và huyền hoặc với tôi, khi tôi mới chỉ là một đứa trẻ còn mặc quần thủng *** ngồi trong lòng bà ngoại. Bà tôi, một người đàn bà đã từng đi buồn hàng chuyến vào thấu Huế. Tu Ran. Huế ! Ấy là những cung điện, đền đài mái ngói phủ rêu phong thành kính có những hàng cột, con chữ sơn son thiếp vàng. Còn những người lính canh cổng thành, mặc bộ quần áo đỏ có nẹp vàng, chiếc nón con con che trên đỉnh đầu rũ xuống một tia ngù tía, chân quấn xà cạp. Những người lính đứng im như một pho tượng gỗ, bất chấp nắng mưa. Bà ngoại tôi bảo: “ Nước sông Hương xanh như mắt con mèo già”. “Có xanh giống như nước sông Kiên Giang của miềng không ngoại?”. “ Ăn nhằm chi con. Ăn cho mau lớn vô coi cho biết”. “Răng vô được Huế ngoại?”.”Ráng mà học giỏi như ông Đồ Thông nớ”, Làng tôi có ông Đồ Thông, hay chữ Hán. Nghe bảo ngày trước ông Đồ đã từng vác lều chõng vô Huế thi. Thi cho đến bạc cả tóc, chỉ được cái tú tài. Ông về làng vừa học, vừa mở lớp dạy sắp trẻ nít trong vùng.
Ông ngoại, rồi ba tôi cũng đã từng theo học ông Đồ Thông. Khi tôi ra đời ông Đồ đã mất lâu, bị xe nhà binh Nhật cán chết ở ngoài Cửi. Nhưng chuyện về cái sự học hành của ông Đồ, luôn được người làng lấy ra để làm gương cho con cháu.
Hình như ngày còn nhỏ, tôi cũng đã từng ao ước được một chuyến vô Huế. Ấy là một buổi chiều, đám trẻ con chúng tôi ra ngoài bờ sông Kiên Giang lặn ngụp mò hến, tắm táp. Thỉnh thoảng có hai chiếc thuyền có mái che, chở đầy lá nón, củ nâu dong buồm xuôi con nước ra biển. Những chiếc thuyền buôn chở của rừng đi Huế. Một đầu con thuyền hai ba chị mặc áo dài, áo cánh trắng ngồi nhai trầu, đánh bài. Còn một đầu thuyền, người lái đò cởi trần, mặc độc chiếc quần đùi giữ lái.
“-Thuyền đi vô Huế tụi bây ơi”.Lũ trẻ con reo lên. Vài đứa còn ngổ ngáo lặn một hơi dài, bơi đuổi theo thuyền nương theo con nước, xuôi dòng. Nhưng không một đứa trẻ nào dám bám vào mạn thuyền. Những gã chân sào đều khó tính, mà cũng có thể các bà buôn kiêng kỵ kẻ bám theo thuyền mang đến cho họ những điều xui xẻo trên chặng đường đánh vật với sông nước.
Huế ngày xưa đối với tôi chỉ là một ảo ảnh. Còn Huế bây giờ, qua những câu chuyện đêm mưa dầm dề của em thật gần gũi thân thương. Tưởng như tôi đã từng sống ở đấy, cùng em chung những kỷ niệm.
Thực tôi khó hình dung ra em, một sự phân thân của hai con người. Một cô đại đội trưởng trinh sát của thành đội Huế, nghiêm khắc rất mực trong những lúc đánh địch mỗi khi về đồng bằng và cũng tỏ rõ là một người tỉ mỉ, cụ thể trong hợp đồng tác chiến với bộ đội. Rất là chỉ cả với em út. Sau cô cậu trinh sát trong đội, một điều “ Chị Tâm” hai điều “chị Tâm”… Những ngày bộ đội khan gạo, thiếu ăn. Em bất chấp địch chốt chặn cửa rừng, em đã đạp đường đưa từng trung đội về Liễu Thượng, về bồn phổ, về Văn Xá Làng, Văn Xá Trung, Bầu Tháp mua gạo, muối mắm , bột ngọt. Nhưng còn một cô Tâm của tôi, dễ xúc cảm và cũng hay thẹn đỏ mặt khi bộ đội chọc và đám con gái bên huyện đội sống sượng ghép đôi với tôi trong mỗi chuyến đi đồng bằng thường hợp quân trên đỉnh Đồi Tranh.
 
I

iloveyou247_tintin

Cả em và tôi đều không ai đoán định rằng tình yêu của mình sẽ đi tới đâu. KHông ai dám nói một lời quyết định. Yêu và được yêu đã là niềm hạnh phúc bất tuyệt cho mỗi người được hưởng trọn vẹn niềm vui ấy trong chiến tranh, khi mà cuộc sống luôn đưa ra những mệnh đề nghiệt ngã bắt mỗi người trong cuộc phải vượt qua. Một chớp mìn nổ bất tử, một mảnh pháo vu vớ, một trái bom trút vội của chiếc phản lực AD6, trước lúc hạ cánh xuống sân bay đều có thể gây ra cái chết cho bất kỳ ai. Lòng dũng cảm của người chiến sĩ được thể nghiệm trong những tình huống cụ thể khi so đọ với kẻ thù mặt giáp mặt, chứ không ai đem ra đối đầu với những điều bất trắc vô tình của chiến tranh.
Tình yêu của tôi và em, tự bản thân nó đã là một sự thách thức với cuộc sống hàng ngày.
Một đêm, em đưa đại đội tôi về diệt đại đội bảo an số 23, đóng ở đình làng Liễu Thượng. Không gặp địch. Dân báo tụi bảo an đã rút ra ngoài An Lỗ từ hồi chiều. Trung đội nghĩa quân mới nghe vài loạt AK và một trái B40 nổ hất tung cây rơm nơi chúng nằm phục đã vội vã tháo chạy thục mạng, bơi qua con hói sang làng Phú Ổ. Bộ đội tràn vào làng. Đèn đuốc dân thắp sáng trưng, bất chấp những quả pháo địch bắn chặn ở ngoài bãi cồn mồ mả sát rìa làng. Gió thổi tới mùi thuốc pháo hăng hăng. Em đưa bộ đội đi các nhà mua gạo, đậu phộng. Đêm về khuya, việc mua bán đã xong. Em nhủ tôi về thăm ngôi nhà cũ của cha mẹ ở ngoài xóm. Chỉ còn lại nền đất cũ để trơ trọi vài mảng tường đổ rêu phủ đầy trên nền xi măng lở lói.
- Lính Diệm kéo về đốt dạo “Tố Cộng”. Ba em là Cộng Sản nằm vùng trên núi hoạt động từ trước.
Tôi ra ngồi ở thành giếng. Ánh trăng soi mặt nước trong lòng giếng sáng loáng. Tôi đã nghe em nói một câu phát rợn người, sau lúc em nhìn xuống giếng hồi lâu.
“- Anh biết không? Ông nội em đã bị địch trói lại, rồi thả xuống giếng này cho đến chết”.
Giọng tôi run run.
“-Sao vậy”?
“- Tụi lính bắt nội chỉ căn hầm bí mật của đồng chí bí thư chi bộ xã… Ông nội em không biết rằng hàng ngày, đã có một tên trong xóm làm chỉ điểm theo dõi ông mang cơm ra đồng bỏ lại ở ngoài ruộng lúa”.
Tôi hơi rùng mình ớn lạnh. Em cảm thấy điều ấy, nên đã khẽ khàng cầm lấy tay tôi. Tôi không ngại những xác chết, nhưng tôi đau đớn.
- Một tuần sau, tụi địch rút đi, chú em mới đưa được ông nội em đi chôn cất.
Qua mảnh vườn hoang của nhà em, ngoài kia là cánh đồng hoa màu của làng Liễu Thượng được ngăn cách bởi một hàng rào thưa trồng những cây xương rồng và dứa dại.Pháo địch ở Từ Hạ, ở Văn Thánh đã ngưng bắn từ lâu. Xung quanh yên tĩnh, một sự yên tĩnh tới lạnh lẽo, hoang vắng. Và nếu không có những quả pháo sáng trơ trẽn tỏa quầng ánh sáng vàng vọt trong một khoảng không gian mênh mông. Và nếu, lâu lâu ở hướng ngoài đường lộ, không vọng lại một tiếng súng bắn cầm canh phát một của tụi lính tuần, thì không ai nghĩ mảnh đất này là nơi thử sức của chiến tranh, một nơi đang gieo rắc cái chết cho người nhập cuộc. Một nơi mà mỗi số phận con người đều phải tự tìm lấy cho mình câu trả lời về lẽ sống.
Tôi mê đi trong những suy tư đang trào dâng bởi hơi ấm của vong tay em xiết chặt. Đôi môi em căng mọng. Và, tôi đã bắt gặp cái đốm sáng phát ra từ đôi mắt em bất chật ngước nhìn lên vòm trời xanh thăm thẳm, đan dày những ngôi sao đêm hè.
Ánh mắt ấy đã là câu trả lời của em cho cuộc chiến đấu mà em theo đuổi và sưởi ấm cho tình yêu của tôi. Tôi không phủ nhận, rằng em là người nâng đỡ cho tâm hồn tôi có lúc tưởng như suy sụp. Ngày ấy tôi chỉ là một anh trung đội trưởng. Một trung đội – (nào có ra cái trung đội !) mười bốn tay súng, vừa bị thương, vừa sốt rét. Thỉnh thoảng lại một chiến sĩ hy sinh vì vấp mìn do địch gài trên con đường trục, hoặc bị phục kích. Bốn giờ sáng chúng tôi đã trở dậy lo cơm nước. Ăn xong, mỗi người một cục cơm vắt, vác B41 ra ngoài ngã ba cách hậu cứ trung đội nửa giờ ngồi phục kích. Từng phút tôi ngóng tai nghe một tiếng động lạ, phát ra từ trong đám lá cây rừng rậm rạp. Cứ tưởng là bước chân tụi ngụy, hóa ra chỉ là một đàn duộc kéo nhau đi ăn, động cành và lục cục khuân đá dưới lòng khe cạn để bắt những con cua đá, ốc đá gày đét sống nhờ vào lớp rêu. Một lần tôi nhìn thấy một chàng vượn, làm nhiệm vụ cảnh giới cho cả đoàn bắt ốc. Con vượn đực nhặt được một chiếc mũ sắt của lính ngụy. Nó ngồi trên tảng đá, chụp mũ lên đầu gãi bẹn cười khành khạch. Chơi chán chú vượn quẳng cái mũ va vào đá loảng xoảng. Ngồi suốt từ sáng sớm cho tới bốn giờ chiều cảnh giới địch. Mỏi mắt, căng thẳng đợi chờ. Mệt, thèm thuốc nhưng không được hút. Có nhiều lúc tụi địch tới, hạ trại đóng kề bên. Không đánh được vì trung đội không đủ lực và còn là một cách để đảm bảo sự bí mật cho con đường trục nối về với tiểu đoàn. Đạn B40, B41 càng hiếm. Mỗi khẩu chỉ còn hai ba quả, dành cho những chuyến đi đồng bằng và một khi xảy ra những trận đánh tao ngộ chiến. Những lúc ấy, tự nhiên tôi lại mong địch xuất hiện trước mũi súng để được ấn vào vòng cò khẩu B40 đã bỏng rát trên vai, trĩu nặng. Đánh để trả thù cho một sự tức tối, căng thẳng kéo căng dây thần kinh vì chờ đợi. Bắn một phát B40, xả vài loạt AK, rồi rút. Muốn ra sao thì ra. Pháo ư? Mặc kệ pháo. Địch phát hiện ra hậu cứ? Thì đánh. Đánh xong rồi bỏ. Tôi không suy nghĩ tới hậu quả sau đó. Ngồi nghe tiếng địch chặt cây, mắc võng ở trong bãi ngụy mà tức như bò đá. Ôi ước gì có một khẩu cối 60 ly và hai chục quả đạn. Một khẩu B41 với dăm cái bắp chuối. Ba đứa tôi dư sức nên cho trung đội ngụy sặc máu. Nhưng mong ước không thể đẻ ra đạn và những trận đánh. Tôi không hề tức tối cậu Dần, chiến sĩ của trung đội tôi ngày ấy, trong lần đi phục kích đã xả một loạt AK, chỉ vì nghe tiếng cây rừng ràn rạt, tưởng tụy ngụy hành quân. Hóa ra là một cặp vợ chồng gấu chó dạo trên đám cây giang. Căng thẳng quá mà !
Hai ngày sau, lúc lau súng , thằng Dần bị cướp cò. Viên đạn ăn chéch vỡ xương cổ tay trái, đứt gân. Nó không hề kêu la, nhận kỷ luật với chỉ huy đại đội. Nhưng tôi thì biết rằng nó đã cố ý làm cho viên đạn cướp cò, tự thương, tìm thấy một con đường lui về tuyến sau để giữ trọn vẹn “cái gáo”.
Tôi khinh ghét thằng Dần, nhưng không giận nó. Ai dám đoán chắc, tôi trong những lúc ngồi bó gối dán mình sau gốc cây to, ngong ngóng cầm khẩu súng cảnh giới. Tiếng mưa rơi lắc rắc trên tấm áo ni lông. Thỉnh thoảng tôi lại lấy môi liếm những giọt nước mưa rỉ xuống từ chiếc mũ vải mềm ướt sũng, tôi đã chẳng ao ước cho một ngày nào đó được trở lại quê hương, vùng vẫy trên dòng sông Kiến Giang, nằm toài dưới bóng tre râm mát nghe vân vi tiếng ve, mắt dõi theo cánh diều đang đọng nắng giữa vòm trời cao vòi vọi kia… Tôi chẳng đã có một ý nghĩ được bị thương nhờ một viên đạn, một mảnh pháo lạc bất tử để nhẹ nhàng rút ra khỏi cuộc đấu sức căng thẳng, và không cân sức lúc này?
Tình yêu của em đã cứu tôi ra khỏi những giây phút mà trạng thái tâm lý bế tắc, u uẩn. Tôi cảm thấy xấu hổ, hai tai nóng bừng khi giáp mặt em. Nhìn thấy em hai ống quần xắn cao, vo tròn dưới gối, chiếc thắt lưng Mỹ, có hai trái lựu đạn. Khẩu AK báng gấp khoác hất ra sau vai, nòng chĩa về phía trước hơi chúc xuống đất. Lọn tóc được buộc bằng một sợi len đỏ. Gương mặt em hồng lên bất chợt, và khẽ mỉm cười. tôi đã phải tránh ánh mắt ấy. Tôi tưởng như ánh mắt của em là hai ngọn đèn soi thấu tâm hồn tôi, đọc được ở trong tôi những ý nghĩ đớn hèn và sự khắc khoải, mỏi mệt.
- Anh mần răng rứa, anh yêu của em?
Giọng em nói nhỏ, vừa đủ cho tôi nghe và bị chìm vào lẫn trong tiếng chân của mấy người đang lội dọc theo khe suối trước mặt.
- Không… không sao cả. Tâm à.
Tôi như kẻ ăn vụng bị bắt quả tang. Và bản lĩnh của một anh cán bộ đại đội, vốn có tiếng dũng cảm, liều lĩnh lại trở về với tôi. Tôi hăng hái dẫn bộ đội đi xuống làng đánh bọn bảo an, hoặc thậm chí tập kích vào tụi sư đoàn 1, đóng dã ngoại ngoài con đường chiến lược. Tôi đã đánh là thắng. Cánh biệt động huyện đội, trinh sát thành phố, trinh sát Quân khu nhìn tôi nể phục. Những đêm về làng vượt đường quốc lộ, xuống vùng sau họ sẽ yên tâm hơn, tin hơn nếu biết có tôi đi cùng bộ đội C1, đi trước đánh mở đường. Nhưng những người du kích có biết đâu rằng, trong những ngày ở rừng cái thằng tôi hèn kém trong tôi có lúc trỗi dậy, buồn nản, yếu ớt… May mà người ta không đọc được những ý nghĩ của nhau giấu trong đầu. Nếu ý nghĩ biết hiện hình nắm bắt được thì thật là khủng khiếp, tai vạ. Nhưng, có lẽ chỉ có vậy thì con người mới vẹn toàn hơn, trung thực hơn chăng ? Kẻ đớn hèn trong tôi, tốt hơn lên, trung thực hơn lên và giữ được mình trên cái bờ vực của sự sa ngã chính là một phần ở em.
Tưởng em là người cứng rắn, hóa ra lại mau nước mắt. Bữa tôi đánh về chợ Văn Xá, bị thương vào bụng. Một viên đạn cực nhanh đã xuyên thủng hai lỗ. Thương binh lên tới cửa rừng, gặp tôi em đã không còn giữ nổi tình cảm của mình trước đám cô Liễu, cô Huệ, chị Don bên huyện đội cùng đi đồng bằng đêm ấy. Em khóc, và cứ níu lấy đôi bàn tay lạnh giá của tôi. Bị thương nặng, nhưng đầu óc tôi vẫn tỉnh táo. Tôi khẽ quờ tay, lau những giọt nước mắt ấm nóng chảy dài trên gò má của em. Kinh nghiệm cho hay, kẻ bị thương nặng mà tỉnh, thường khó qua khỏi. Em càng hoảng sợ. Cứ vài phút em lại đưa bàn tay sờ vào ngực tôi coi thử tim tôi còn đập hay không.
- Em sợ anh chết hả. – Tôi cố đùa.
- Đừng nói nữa, anh… Em cầu nguyện cho anh đừng có bị sao.
- Cầu ai ? Em định cầu trời khấn phật ư?
- Thôi quỷ ạ. Em đang buồn thối ruột thối gan ra đây mà anh còn đùa…
- Em khỏi lo, thằng Nhô nối ruột còn tài hơn tay thợ vá ruột xe đạp bị thủng.
Hơn hai tháng nằm viện, lần đầu tiên tôi mới hiểu bị thương là một điều tệ hại. Tôi nguyền rủa nó như đã từng nguyền rủa những chiếc máy bay trinh sát OV10 “cán gáo” vào giờ nấu cơm vẫn còn rè rè rà sát xuống mong tìm ra nơi trú quân của “ Việt cộng”. Tôi nhớ từng nghe pháo rít trên đầu, nhớ từng cánh rừng vùng giáp ranh. Và nỗi nhớ day dứt khôn nguôi quặn lên từng đêm là những kỷ niệm đã có với em. Tôi mong được xuất viện từng ngày, sẽ băm bổ vượt đường tuyến qua sông Bồ để tìm về với đại đội. Những vết thương vừa mọc da non, những cơn sốt thường kỳ lại kéo đến quật ngã tôi không cho ngóc đầu dậy. Đã đến lúc bệnh tật trả thù tôi, không phương chống trả.
Vào một ngày giáp năm, chỉ còn gần chục ngày nữa là Tết, tôi lên đường về đơn vị. Ở bãi đá ngang sông Bồ, tôi đã gặp Lân, chủ tịch xã T, cùng đoàn cán bộ của huyện đi sang tỉnh họp, vừa kết hợp đưa thương binh chuyển lên tuyến trên. Họ đang ngồi dưới gốc cây rậm rạp bên bờ sông chờ vượt sông. Hầu hết tôi đều quen biết, không một ai nói về chuyện Tâm. Họ hỏi thăm sức khỏe của tôi và vui vẻ nhận thuốc, ăn kẹo tôi mời. Mãi sau, Lân kéo tôi ra một quãng. Anh tả hỏi, nhưng lại không nhìn vào mắt tôi:
- Tâm hy sinh rồi, anh đã biết chưa?...
 
I

iloveyou247_tintin

Phần VIII

Lửa cháy sáng bập bùng hắt lên những gương mặt ửng đỏ. Rượu nấu bằng sắn xem ra cũng năng đô. Tuy nhiên thịt còn nhiều và riêng nồi cháo duộc hầu như chưa ai đụng tới. Chiếc xoong cháo đặt bên cạnh đống than hồng, vẫn tiếp tục sôi rậm rịch. Lớp mỡ duộc béo vàng, đóng váng trên mặt nồi cháo. Thịt duộc bóp với riềng, trộn mắm ruốc nấu giả cầy, được đổ đầy hai nắp xoong. Mọi người vừa múc thịt ăn và vừa uống rượu.
Tam ngồi xếp chân bằng tròn trên chiếc sạp nứa vấn một điếu thuốc thật to, rồi đẩy cả gói thuốc tới trước mặt Phong.
- Hút đi anh, thuốc lá sợi Lạng Sơn đấy. Thứ thiệt chứ không phải của giả đâu. Tháng trước tôi ra tận ngoài rừng thông đổi hàng, gặp một thằng đông hương Hải Phòng đang coi kho ở đấy. Cha chả, hắn đưa tôi vào vùng kho mà hoa cả mắt. cơ man nào là thuốc tây, thịt hộp, bột trứng, lương khô, mì chính. Nhưng tôi khoái nhất là thuốc lá sợi. Hắn bốc cho tôi nửa gùi.
Tam có điệu vấn thuốc thật khéo. Cuộn xong đưa lên miệng và chỉ dùng hai vành môi thấm nước bọt, châm thuốc hút. Thuốc thật thơm, tàn rơi trắng bóc. Phong ngồi bó gối trầm ngâm, tay mân mê chiếc ca nhôm còn rượu. Uống tới ca rượu thứ hai, nhưng anh chưa có cảm giác say. Anh uống chậm, ăn chậm. Thỉnh thoảng Lý với tay lấy chiếc muôi múc đầy thịt đổ vào bát sắt cho anh. Men rượu bốc lên làm cho cô gái đỏ hai quầng mắt.
- Anh buồn hử? – Tam bảo.
- Buồn chi! – Phong cười lơ đễnh, nhìn vòm hang nhô ra như hàm ếch, ấm khói đen.
Đội sản xuất của huyện chỉ có sáu người, Tam từ ngày dời đại đội 1, huyện đưa xuống làm đội phó. Đội sản xuất không làm nhà, làm hầm mà ở ngay trong vòm hang đá. Xưa kia đây là một buôn của đồng bào Pa Cô. Địch càn dạo 1965, ném bom vào buôn, đồng bào kéo nhau vượt qua đường tuyến về ở bên làng Tà. Nương rẫy cũng bị bom pháo nem nham nhở, đồng bào giao lại cho huyện. Rút kinh nghiệm trận đói sau Mậu Thân, từ cuối năm 1968, các đơn vị đều có một bộ phận sản xuất nằm ở tuyến sau trồng sắn, bắp, trỉa lúa. Mỗi đội sản xuất quân số không nhiều. Tập trung về đây những người già cả, mất sức chiến đấu, các chị phụ nữ không thể bám trụ được ở vùng ranh. Tam đã trả một giá rất đắt. Anh chấp nhận việc khai trừ ra khỏi Đảng, hạ cấp bậc từ chuẩn úy xuống thượng sỹ để lên miền tây sống ở đội sản xuất. Tam vất mạnh mẩu thuốc ra ngoài bãi đá, ngửa cổ dốc một hơi cạn hết chỗ rượu trong ca, quay sang bảo Phong.
- Anh với tôi là những thằng khôn anh Phong à. Bữa ở huyện học tập chỉnh huấn, tôi cứ ngỡ anh là người cứng chứ…-Nghĩ một lát, Tam nói tiếp – Dại gì đâm đầu vào chỗ chết phải không anh ? Ở dưới giáp ranh sống chui lủi chạy giặc, kiếm miếng ăn nhục như con chó.
- Vậy cậu cần cái gì ? – Phong nói giật cục từng tiếng.
- Tôi cần giữ cái mạng sống cho ba đứa con của tôi.
Phong cay cay ở sống mũi. Anh đưa mắt nhìn người ở bên đội sản xuất của Tam. Ba người đàn ông đều đã say rượu có người chẳng kể gì sự có mặt của chị Lý, của chị Bờn – một người đàn bà đứng tuổi đang ngồi cời lửa trong bếp – nằm ngả lưng trên tấp sap, cất tiếng ngáy. Phong lại nhìn vòm hang. Anh uất nghẹn trong cổ mà không muốn mở miệng tranh cãi với Tam. Hắn đã hiện nguyên hình là kẻ đào tẩu. Con người Tam giờ đây, tựa như một dòng suối sau cơn mưa, nước dềnh lên cuốn trôi đi cành lá, và khi nước cạn trơ ra những tảng đá rêu xanh phủ đầy trên lớp bùn nhớp nhúa. Hình như Tam không hề để ý tới thái độ khó chịu của Phong. Anh ta gắp thịt nhai trèo trẹo, da mặt bóng láng.
- Hừ… - Tam nói ậm ừ. Anh bây giờ thành thằng lính gùi, tôi làm gã đi cuốc đất. Có khác gì nhau đâu nào… Nói anh đừng giận, tôi quý trọng anh lắm. Ít ra ở đây, lâu lâu tôi còn được gặp anh để chuyện trò, bù khú. Chớ chỉ có mấy ông này tôi buồn lắm.
Tam hua cánh tay chỉ những người say đang nằm ngả nghiêng dưới sàn.
- Còn tôi thì sao? Chợt chị Bườn đạp mạnh vào vai Tam giọng the thé.
- Cả cô tôi cũng chán… Chán đến tận cổ rồi cô Bờn ạ…
- Nhớ nhé…! Gớm cho cái mặt – Chị Bờn dí ngón tay vào trán Tam.
Trong khi ấy Lý ôm bụng cười ngặt nghẽo, thỉnh thoảng cô ta đụng đầu vào tay Phong. Giận quá. Anh bảo Tam:
- Thôi cậu đừng nói nữa… Coi chừng cậu say rồi đấy.
- Say thế nào được – Tam cao giọng – Anh coi thường tôi hử? Tôi còn rượu nữa kia.
Tam đứng dậy, bước hơi nghiêng người nhưng hai chân vẫn vững, đi vào trong góc sàn bưng ra một chiếc nồi đậy lá chuối xanh.
- Rượu đoác đấy, con mẹ Hường ở làng Tà cho tôi. Anh thử đi. Chẳng thua gì bia Trúc Bạch Hà Nội đâu.
Rượu chế bằng nõn cây đoác, có bỏ men, chiết ra bát, cho một thứ nước đục lờ lờ như nước gạo. Uống cũng say nhưng không nặng và nồng như thứ rượu nấu bằng sắn. Phong chẳng khách khí tu cả ca, rồi rót đưa cho Lý.
- Uống đi Lý, rượu này uống được đấy cô ạ.
Lưỡng lự trong giây lát rồi Lý cũng cầm lấy ca rượu của Phong đưa cho, đưa lên nhấm thử. Cặp môi căng mọng, vành môi dưới hơi trẽ xuống. Vừa uống Lý vừa liếc nhìn Phong, ánh mắt sắc sảo của cô bắt ánh lửa.
- Cô Lý ạ… - Giọng Tam rõ là một kẻ đã ngấm hơi men – Cô là bông hoa đẹp nhất vùng Hang Đá, Khe Trăng. Bồ của anh Thoan có cô Nhu. Cô đi với anh Phong, đại đội trưởng cũ của tôi đấy cô ạ. Hai cô gái đẹp của đại đội vận tải đi với hai ông cán bộ đại đội. Vậy là nhất. Các cô được các ông ấy chiều chuộng… ha … ha. Ước gì tôi cũng được làm thân con gái.
- Cậu có im đi không. Đừng có cợt nhả. – Phong dằn giọng, nhưng anh không buồn nhìn hắn.
- Cô Lý ơi, cháo duộc bổ nhất trần đời. Bổ tim, bổ phổi, bổ ngũ tạng trần bì. Cố mà ăn cô em ạ. Hai thầy trò nhà cô không ăn hết, chóc nữa là tôi đổ vào túi no lông bắt đem về, năm trên võng mà ăn. Vừa ăn vừa … hí…há.. há.
Phong nhỏm dậy bỏ ra ngoài. Chẳng hơi đâu tranh chấp với một thằng say. Vả lại nhìn thấy mặt hắn anh càng ghét cay ghét đắng.
- Say rồi hử, anh Phong… A ha, một anh đại đội trưởng không quân bây giờ bông dưng thành một gã lính gùi. Hừ, ước gì, tiểu đoàn 10 của mình còn đầy đủ như dạo đánh Mậu Thân nhỉ anh Phong… Vậy mới ra hồn thằng lính giải phóng chứ. Gạo cơm đủ, súng đạn dư thừa, cứ tưởng nuốt trôi được tụi ngụy, tụi Mỹ ở Huế ngày ấy.
Điều này thì hắn nói đúng. Phong nghĩ. Nhưng đấy không phải là niềm hối tiếc của một thằng lính dám sống và dám chết cho danh dự của tiểu đoàn.
- Rốt cục mày cũng chỉ là một thằng hèn thôi Tam ạ. – Phong nhủ thầm.
Anh trầm ngâm ngồi xuống tảng đá trước cửa hang, rút một điếu thuốc Điện Biên châm lửa hút.
 
I

iloveyou247_tintin

*
* *
Phong và Lý trở về nhà lúc trời đã nhá nhem tối. Nồi cháo duộc không ai ăn nổi, kể cả món thịt duộc nấu giả cầy. Tiếc rẻ của giời, Phong nhủ Lý ra cắt hai tàu lá chuối, bọc một ít thịt mang về cho ông Mịch và những cậu chiến sĩ ở nhà. Chủ nhà, kể cả Tam, không ai đủ lòng kiên nhẫn hiếu khách để tiễn hai người ra khỏi cửa. Họ đều say, nằm lăn lóc trên sạp nhà kèo gỗ. Người duy nhất còn tỉnh táo là chị Bờn.
Phong đi trước Lý, bấm đèn pin. Quầng ánh sáng phá ra vừa bằng cái nón soi đường. Từ chỗ đội sản xuất về tới nơi ở của đại đội vận tải, đi ban ngày mất chừng hai mươi phút. Nhưng đi đêm chắc sẽ chậm hơn. Suốt chặng đường men theo chân núi Lý không nói gì, cô ta cắm cúi bước theo sát gót Phong, thỉnh thoảng xuýt xoa kêu rét. Con đường chạy men theo suối đá, có đoạn lội tới lưng bụng chân, rêu trơn nhãy càng khó đi hơn.
- Đi chầm chậm chờ em với anh Phong.
Phong quay lại soi đèn pin cho Lý theo kịp. Nước suối lạnh buốt hai bàn chân. Nhưng hình như cái lạnh làm cho Phong giã rượu, tỉnh táo.
Hai người đi chậm. Chẳng mấy lúc Phong nhận ra Lý nắm vào tay áo anh từ lúc nào.
Anh mặc kệ, lặng lẽ bước.
- Cô lạnh hả? - Phong chợt hỏi.
- Em lạnh muốn chết. – Lý xuýt xoa.
- Chết răng được… Số cô còn sống dai lắm.
- Anh mần răng mà biết được?
- Tôi đoán vậy .. . à này, nghe Thoan bảo ngày trước cô đã từng học văn khoa Huế, phải không ?
- Dạ phải. – Cô gái đáp gọn lỏn.
- Con gái Huế giỏi ha!
- Anh Phong cũng giỏi chớ bộ. Đánh giặc giỏi. Em còn nghe mấy người đồn anh dũng cảm lắm mà… Tán gái cũng tài.
- Láo ! – Phong bật cười. Anh nhận ra mình nói vuột ra một từ chẳng đẹp tí nào với cô ta, anh chữa lại – Xạo, Lý xạo nhé… Tất cả mọi cái trong cuộc đời đối với tôi đều bình thường.
- Anh nghĩ vậy, nhưng người ta nghĩ khác thì răng ?
Phong mỉm cười khi nhận ra những ngón tay của Lý đã bám chặt vào cánh tay anh.
Từ ngày về đơn vị tới nay, Phong không hề có thái độ phân biệt Lý với các chiến sĩ khác trong đại đội. Vẫn biết, Lý có một lý lịch không lấy gì làm đẹp như người khác. Nhưng anh Tin, qua hơn hai năm lên rừng được cách mạng giáo dục, hẳn Lý đã trở nên một con người có ích, và coi như một chiến sĩ. Thoan đã có nhận xét tốt về Lý, khi anh trao đổi với Phong. Mấy tháng đi với trung đội 2 Lý chưa để xảy ra điều gì đáng trách. Phải thừa nhận là Lý có một vẻ đẹp khá quyến rũ với bất kỳ một anh con trai nào. Anh bỏ ngoài tai những điều tiếng đồn đại về Lý có quan hệ lăng nhăng, với một lý lẽ đơn giản : Chưa hiểu, chưa thấy thì chưa nên kết luận vội vàng và tạo ra một mối nghi ngờ với đồng đội.
Lý vui vẻ với Phong cũng như nhiều người khác. Phong gặp Lý hàng ngày trong mỗi bữa ăn. Thỉnh thoảng cô ta rửa giúp anh cái chén ăn cơm, ấy là chuyện thường tình. Lý đâu rửa giúp cho một mình Phong? Nụ cười của cô đâu chỉ dành cho riêng anh ? Vả lại tình yêu của Tâm quá lơn, khiến anh không nghĩ tới bất kỳ một cô gái nào khác, ngoài Tâm. Chỉ có hai người đi trong khoảng rừng tối tăm, biết đâu Lý sợ thật ? Phong làm như không để ý tới bàn tay của Lý mỗi lúc xiết chặt vào cánh tay anh.
Bóng đen tràn ngập núi rừng, lòng khe. Lũ côn trùng kêu rỉ rả. Tiếng mang tác vọng lên ở chân đồi bên kia. Không gian u tịch lạnh lẽo Hai người lần mò lội suối. Tuyệt nhiên, Phong không hề nảy sinh một rung động nào trước sự va chạm của bàn tay Lý. Anh chỉ có một cảm giác được che chở cho cô gái.
- Ghét anh ghê… Anh bước nhanh thấy mồ. – Lý buột miệng trách và cười khúc khích.
Đi một đoạn, Lý lại hỏi.
- Răng anh không nói chi? Nói chuyện cho vui.
- Biết nói chuyện chi bây giờ, đường trơn coi chừng trượt đá trọ chân đó cô em ạ.
- Trẹo thì em bắt đền anh.
- Trời ơi, lính giải phóng như anh thì còn có cái chi mà đền. – Phong phì cười.
Con đường tới đây leo lên sườn đồi. Bàn tay Lý vẫn bám chặt vào một bên cánh tay Phong. Anh nhận ra cả hơi thở nhẹ của cô gái phả vào một bên má. “- Không lẽ cô ta mệt ?.. Nào đã ăn nhằm chi với một người lính gùi. Mà cũng có thể Lý mệt thật”. trong các lùm cây bên đường, đây đó những mẩu lân tinh phát sáng. Đường trơn, bùn dính lép nhép dưới đế dép. Chợt Lý nói dịu dàng.
- Anh và em đang hiện hữu sống trong đêm huyền thoại.
Lý cười khúc khích. Phong biết cô ta đang ngước lên nhìn anh.
- Còn chi nữa, Lý nói nữa đi. – Phong động viên cô gái.
- Không em muốn nghe anh nói kia.
- Tôi nói thì chỉ có mỗi chuyện ùng oàng, súng đạn. Chán chết.
- Chán mà anh còn đi lính giải phóng?
- Hừ, nước có giặc mà.
- Vậy hả?
- Lý làm như ở trên trời rơi xuống ấy.
- Thì em vừa bảo anh và em đang sống trong đêm huyền thoại của chiến tranh mà. Thế ni nhé. Giữa rừng sâu âm u, một cô gái Huế đi với anh bộ đội giải phóng, à quên, một “Việt Cộng” chớ. – Giọng Lý dai ra – Một tay nhà văn nào há. Nhã Ca, hay Lệ Hằng, hay Dương Nghiêm Mậu mà vớ được một cốt truyện như thế ni hẳn sẽ có một thiên tình sử hay hết chỗ chê.
- Đầu óc Lý lãng mạn quá đấy. còn tôi thấy chán ứ lên vì mùi thịt duộc.
- Xì, nói chuyện với anh chán ghê. Anh làm cho em hết hứng.
- Thì cô cứ sống với những giấc mơ của cô đi. Tôi có phải là chính trị viên Thoan đâu mà lo.
- Á à, té ra anh sợ anh Thoan. – Lý reo lên như một phát hiện.
- Không sợ. Nhưng chắc chắn ông Thoang không phải là ông Phong.
Họ lại lội suối. Cánh tay phải của Phong như tê đi vì sức kéo của bàn tay Lý. Hai người sẽ còn phải lội qua một vũng nước sâu quá đầu gối nữa, đi thêm một đoạn rồi mới đến con đường trục đi gùi gạo hàng ngày. Chính Phong không hay xảy ra điều bất ngờ…
Tới ngang chỗ lội, anh bước lên trước đứng ở tảng đá soi đèn pin cho Lý. Cô không hề xắn quần. Còn cách một đoạn, cô bảo anh:
- Anh kéo giúp em lên.
Một bàn chân của Lý bám vào tảng đá. Cũng là lúc cả người cô ngả vào vòng tay của Phong. Anh chỉ thấy một sức nặng ập vào người mình. Cơ thể của người đàn bà trẻ trung, đầy sinh lực ấm nóng, bộ ngực cứ như dính sát vào người anh, Lý thổn thức:
- Hôn em đi anh !
Giây phút ấy, Phong sững sờ. Nỗi khắc khoải, xen lẫn sự ngỡ ngàng. Một gương mặt cận kề, trong vòm trời sáng mờ bởi bốn xung quanh bị che phủ những tàn cây, vách đá. Lý đã đưa cả hai tay khỏe mạnh ôm lấy đầu anh, vít anh xuống. Đôi môi của cô ta giá lạnh ướt nước. Vành mi mắt cũng lạnh lẽo, mềm.
- Ôi…
Chính bàn tay Lý đẩy nhẹ ngực anh ra. Phong chỉ nghe thấy một câu thảng thốt.
- Ôi ! Anh ngốc lắm..
 
Top Bottom