Cuối cùng là bài thơ "Ông Đồ"
Mở bài
- Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ.
- Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác không nhiều nhưng chỉ với bài Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.
- Bài thơ đã thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của “ông đồ”, qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Thân bài
Hình ảnh ông đồ trong bài thơ
* Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sông thanh bần bằng nghề dạy học. Theo phong tục, khi Tết đến, người ta sắm câu đôi hoặc đôi chữ nho viết trên giấy đỏ dán lên vách, lên cột, vừa để trang hoàng nhà cửa ngày Tết vừa để gửi gắm lời cầu chúc tốt lành. Khi đó, ông đồ được thiên hạ tìm đến và ông có dịp trổ tài, đồng thời có được ít tiền tiêu Tết.
- Ồng đồ vào thời chữ nho còn được đề cao
- Mỗi khi Tết đến, hoa đào nở, ông đồ lại bày mực tàu, giấy đỏ bên hè phố đông người qua lại để viết chữ, viết câu đối đỏ cho mọi người.
- Hình anh ông đồ trở thành thân quen không thể thiếu trong mỗi dịp Tết đến. Ông góp mặt vào cái đông vui, nhộn nhịp cua phô’ phường.
- Người người tìm đến để thuê ông viết chữ, viết câu đối nên ông rất “đắt hàng“ “Bao nhiêu người thuê viết”.
- Người người tìm đến còn để thưởng thức tài viết chữ đẹp của ông. Họ tấm tắc ngợi khen tài họa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay.
Như vậy, vào thời chữ Nho còn được đề cao, ông đồ trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng ngưỡng mộ của mọi người.
- Ông đồ vào thời chữ nho đã suy tàn
- Cảnh tượng lúc này vắng vẻ đôn thô lương:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
- Nỗi buồn lan sang cả vật vô tri vô giác:
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu.
Bằng biện pháp nhân hóa, tác giả diễn tả rất thành công nỗi buồn thấm đẫm trong lòng ông đồ…
- Nỗi buồn thấm cả vào đất trời, cây cỏ. Trời đất cũng ảm đạm, lạnh lẽo như lòng ông:
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.
Lá vàng rơi vốn đã gợi sự tàn tạ, buồn bã; đây lại là lá vàng rơi trên những tờ giấy dùng để viết câu đối của ông đồ. Điều đó, chứng tỏ chẳng có ai đến nhờ ông đồ viết chữ, viết câu đổi như xưa. Cộng vào đó là hình ảnh “mưa bụi bay” càng làm cho cảnh thêm buồn, lòng người thêm buồn…
Vào thời chữ nho đã suy tàn, ông đồ vẫn ngồi đấy như xưa, nhưng cuộc đời đã hoàn toàn khác xưa. Đường phô” vẫn đông người qua, nhưng không ai biêt đên sự có mặt của ông! Ông vẫn cô” bám lấy sự sông, vẫn muôn có mặt với cuộc đời, nhưng cuộc đời đã quên hẳn ông! ông ngồi đấy bên phô’ đông mà vô cùng lạc lõng, lẻ loi. Ông ngồi đấy lặng lẽ mà trong lòng ông là một tấn bi kịch, là sự sụp đỏ hoàn toàn.
Niềm cảm thương chân thành của tác giả
+ Tác giả thương cảm trước cảnh ông đồ lạc lõng, lẻ loi giữa phô” xá đông người qua lại. Đó cũng chính là sự thương cảm của tác giả dành cho một lớp người (những nhà nho) thời Hán học suy tàn. Họ vốn là trung tâm của đời sông văn hóa dân tộc, được xã hội tôn vinh bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng.
+ Tác giả tiếc nhớ cảnh cũ người xưa. Đó là cảnh phô” xá đông người qua lại. Bên hè phô’ những ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ đế viết chữ, viết câu đôi cho mọi người. Trong bài thơ, tác giả thể hiện tâm trạng ngậm ngùi day dứt trước sự tàn tạ rồi vắng bóng của ông đồ, con người của một thời đã qua. Hai câu thơ cuối là lời tự vấn, là nỗi niềm thương tiếc khắc khoải của tác giả trước việc vắng bóng “ông đồ xưa”. Từ sự vắng bóng ông đồ khi Tết đến, nhà thơ bâng khuâng, xót xa nghĩ tới những người “muôn năm cũ” không bao giờ còn thấy nữa. Câu hỏi không có trả lời, gieo vào lòng người đọc những cảm thương, tiếc nuôi không dứt.
+ Trong bài thơ này, cái xưa cũ không còn nữa mà nhà thơ ngậm ngùi nhớ tiếc đó đã từng gắn bó thân thiết, dường như không thể thiêu đối với đời sông Việt Nam hàng trăm năm, lại mang vẻ đẹp văn hóa và gắn với những giá trị tinh thần truyền thông, thì niềm hoài cổ đó có một ý nghĩa nhân văn và thể hiện một tinh thần dân tộc đáng trân trọng.
Kết bài
- Với lôi kết cấu đầu cuối tương ứng (mở đầu là: Mỗi năm hoa đào nở; Lại thấy ông đồ già và kết thúc là: Năm nay đào lại nở; Không thấy ông đồ xưa), nhà thơ đã làm nổi bật chủ đề bài thơ, thể hiện tình cảnh thất thế, tàn tạ đáng buồn của ông đồ một cách đầy ám ảnh.
- Ngôn ngữ thơ rất trong sáng, bình dị và hàm súc. Nhờ vậy, mà nội dung bài thơ đã lắng đọng trong tâm hồn độc giả.
- Một lần nữa ta có thể khẳng định: Bài thơ đã thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của “ông đồ”, qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.