Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
1.Hai câu thơ đầu, nhà htơ đã bày tỏ:
-Kể về cuộc sống hằng ngày của ông khi sống giữa làng xóm, quê hương: trồng rau, trồng hoa , nuôi cá - một thú vui thật thanh nhàn
-Chữ "một" được lặp lại ba lần cho ta thấy nhu cầu cuộc sống thật đơn giản, bình dị
=>Nghĩ về cuộc sống: ông tỏ ra rất vui, rất thích thú. Niềm vui đó xuât sphát từ một ý thức rất kiên định với lối sống chất phác, nguyên sơ. Dù ai có vui thú nào cũng mặc, tôi cứ thơ thẩn giữa cõi đời. Đó chính là trạng thái ung dung, thanh thản cua rmột con người vô sự trong lòng không một chút suy tính, lo toan về con đường danh lợi.
2.Hai câu tiếp:
-"Nơi vắng vẻ" là nơi thiên nhiên tĩnh lặng, nơi tâm hồn thảnh thơi.
-"Chốn lao xao" là chốn ồn áo, cửa quyền, nơi thường diễn ra sự bon chen, luồn lách, sát phạt nhau vì danh, lợi.
-Sự đôi slập giữa dại và khôn chính là cách nói đùa vui, ngược nghĩa, pha chút mỉa mai: theo cách hiểu thông thường của người dân thì học hành, đỗ đạt để lamg quan, để có một cuộc sống công danh, phú quý nơi công đường như vậy mới là khôn; Trạng Trình thì hoàn toàn ngược lại :có học vấn cao, đỗ đạt cao nhưng về sống nơi làng quê, rời xa con đuqường công danh, chức quyền, giàu sang. Phải chăng ông là người dại? Trạng Trình la fmột bậc thức giả với trí tuệ sáng suốt, vì thê sthật ra dại mà lại là khôn. Cho nên cái khôn của người đời lại hoá ra là dại.
3.Hai câu tiếp:
-Hai vế đối nhau rất chỉnh=>thể hiện thú nhàn cua rtác giả. Thu , đông , xuân ,hạ được ngắt thành nhịp rất đều đặn thể hiện nhịp điệu sinh hoạt quanh năm. Ăn uống thì thức gì cũng có, mùa nào thức ấy. Tắm cũng rất tự nhiên, vẫy vùng như bất cứ người dân nào khác ở chốn làng quê.
4. Hai câu cuối:
Hai câu thơ cho ta thấy cuộc sống thanh đạm của ngườ chí sĩ (quan lại về hưu) và sự hài hoà của nhà thơ đối với cuộc sống thanh đạm, hoà hợp với thiên nhiên