Phân tích dùm em đoạn trích "Trao duyên" và "Đại cáo bình Ngô"

V

vtc110993

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Đề 1: Phân tích 18 câu đầu của bài trao duyên?

Đoạn trích:
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường gánh đứt tương tư
Keo loan chắp nối tơ thừa mặc ai
Kể từ khi gặp chàng kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm ngùi chín suối hãy còn thơm lây
Chiếc vàng với bức tờ rơi
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Đề 2: Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn. Cuộc đấu tranh của nhân vật thể hiện ý nghĩa gì?

Đề 3: Phân tích một số chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Trao Duyên để làm rõ thân phận bất hạnh và phẩm chất cao đẹp của nhân vật Thúy Kiều.

Đề 4: Phân tích làm rõ những biểu hiện về tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi


Giúp mình tí nhé ngày 10 thi rồi hix
 
C

canhcutndk16a.

1/ "Trao duyên" là đoạn trích gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) trong "Truyện Kiều" của ND. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều - Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van vỉ:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!

Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp dã phụ chàng từ đây!
Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!

Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?

--------------------------------ST----------------
 
Last edited by a moderator:
C

canhcutndk16a.

2/
Nguyễn Dữ là tác giả nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với danh tiếng của bộ truyện “Truyền kỳ mạn lục”, tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” của nền văn học nước nhà. Trong đó “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là tác phẩm đặc sắc, ca ngợi tính cách dũng cảm, kiên cường, chính trực, dám chống lại cái ác đến cùng, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn-một trí thức nước Việt.

“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.

Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ ‎ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.

Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lới đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.

Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có ‎ nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuấ, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.

Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.

Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút,tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.

Truyện gây ấn tượng bằng một loạt những chi tiết kì ảo, cốt truyện giàu kịch tính, cách xây dựng nhân vật sắc nét, ngôn ngữ kể chuyện trau chuốt, súc tích. Truyện ca ngợi nhân vật Ngô Tử Văn, một trí thức nước Việt khảng khái, nhân cách cứng cỏi, cao đẹp, qua đó bộc lộ niềm tin vào công lí, vào việc chính thắng tà.
--------------ST-----------------
 
C

canhcutndk16a.

Bình Ngô đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngô” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm :

“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”

Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ông không ít lần nhắc đến điều đó :

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.

Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi


Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm.

Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống:

Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh


Cấp cho phương tiện trở về:

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền...
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa...


Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức".

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện, vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn :

Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo


Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể :

Khi Linh Sơn lương het mấy tuần.
Khi Khôi Huyện quân không một đội


Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho :

Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
...Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu

Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.
___ST___
 
H

heroineladung

Ấn đúng dùm mình nhé! Thanks!

Câu 4:
* Bình Ngô đại cáo
là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta sau Nam quốc sơn hà. Nhưng nó là bản Tuyên ngôn độc lập hùng tráng nhất thời kì trung đại. Nguyễn Trãi viết Bình ngô đại cáo vào giữa lúc niềm vui của cá nhân hoà chung niềm vui lớn của dân tộc. Vì thế mà tác phẩm oai hùng đậm chất sử thi.
* Luận đề chính nghĩa của bài cáo:

Mở đầu bài cáo, tác giả đã nêu cao luận đề chính nghĩa của dân tộc, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản tuyên ngôn.

- Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng một nguyên lí chính nghĩa được các dân tộc thời kì trung đại mặc nhiên thừa nhận :

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên cơ sở của tình thương yêu và đạo lí làm người. "Nhân nghĩa" với Nguyễn Trãi là "yên dân" và "trừ bạo". Có xuất xứ từ một quan niệm của Nho gia, song đến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã biến nó thành một khái niệm đậm tính dân tộc. Từ quyền lợi của giai cấp quí tộc, Nguyễn Trãi đã biến thành quyền sống của dân tộc, của con người.

=> Tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản tuyên ngôn; tạo cơ sở cho lập luận kiểu tam đoạn luận; dùng kế “Gậy ông đập lưng ông”.

- Sau khi nêu nguyên lí "nhân nghĩa", Nguyễn Trãi viết những câu văn thật hào hùng, sang sảng, chất chứa lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Đoạn văn nêu ra hàng loạt những chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập của một lãnh thổ, một quốc gia. Đó là một đất nước được xây dựng lên từ lịch sử dân tộc có một nền văn hoá lâu đời :

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Tất cả đều mặc nhiên "vốn có" : từ núi sông vốn đã phân định rạch ròi đến "phong tục Bắc Nam cũng khác". Rõ ràng ta có đủ chủ quyền đất nước bởi từ cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán đến nền văn hoá, rồi lịch sử, rồi chế độ ta đều độc lập đứng trên một cái thế đối vững vàng cùng với nền văn minh phương Bắc. So với Nam quốc sơn hà thì Bình Ngô đại cáo thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia, về dân tộc. Không có minh chứng nào thuyết phục hơn cho nguyên lí nhân nghĩa bằng chính "chứng cứ còn ghi" trong lịch sử. Sự thất bại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã làm tiêu vong những thế lực phi nghĩa. Cũng đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi thật hoàn thiện và cũng đầy sắc sảo.

=> Đặt 2 dt, 2 nền độc lập, tự chủ ngang hàng nhau; xét trên phương diện lịch sử chiến công dt ta luôn là người chiến thắng.

* Phần 2 của bài cáo - bản tuyên ngôn về nhân quyền:

Giặc Minh đã chà đạp lên chủ quyền của dân tộc Đại Việt, gây nhiều tội ác dã man bất chấp nhân nghĩa.

- Cũng như đoạn văn trên, đoạn kể tội quân thù cũng ngắn nhưng sắc sảo. Một bản cáo trạng đanh thép được viết lên từ một lòng căm thù sục sôi.

- Bài cáo đã sử dụng lí lẽ đanh thép, dẫn chứng xác thực để bóc trần bản chất phản nhân nghĩa của giặc Minh, vạch trần những hành động vô nhân, bất nghĩa, phản bội lại cha ông (học thuyết nhân nghĩa) của chúng, đập tan am mưu xảo trá của chúng.

Đoạn văn mở đầu, tác giả chỉ rõ :
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc. Lợi dụng việc Hồ Quý Li cướp ngôi nhà Trần, giặc Minh đã "thừa cơ gây hoạ". Núp dưới bóng cờ "phù Trần diệt Hồ", giặc đã giả nhân giả nghĩa để thực hiện bài "mượn gió bẻ măng".

- Âm mưu xâm lược của quân giặc gian xảo bao nhiêu thì chính sách cai trị của chúng càng thâm độc bấy nhiêu. Vẫn là những chính sách cũ nhưng thâm độc hơn nhiều : chúng không chỉ bóc lột vơ vét hết mọi sản vật, sức người, sức của của dân ta mà chúng còn huỷ hoại cả môi trường sống (tàn hại giống côn trùng cây cỏ) và tàn sát con người không biết ghê tay. Hai câu :

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

như được viết ra bằng máu và nước mắt của người anh hùng suốt đời một lòng vì dân vì nước.

Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không giấy bút nào tả xiết :
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Nguyễn Trãi chọn cái vô cùng (trúc Nam Sơn, nước Đông Hải) để nói đến tội ác của một loài quỷ dữ (thằng há miệng, đứa nhe răng).

Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép :

Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được ?

Tội ác của giặc Minh đã vượt qua cái giới hạn của lẽ trời. Hành động nhơ bẩn của chúng khiến cả thần và người đều không thể tha thứ.

Đứng trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm hận sục sôi của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù

* Quá trình khởi nghĩa gian khổ và tất thắng:

Căm thù giặc sâu sắc, để yên dân trừ bạo, bảo vệ nhân nghĩa, ta đã dấy binh ở Lam Sơn chiến đấu và chiến thắng, thu giang sơn về một mối.

- Tác giả tái hiện hình tượng người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu gian khó :

Ta đây :
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình

Nhưng cái lớn ở Lê Lợi chính là lòng căm thù giặc sâu sắc. Từ đó mà cái chí của người anh hùng là "tấm lòng cứu nước" như con thuyền lúc nào cũng "đăm đăm muốn tiến về Đông". Cái chí khí ấy lại được rèn đúc qua những tháng ngày "quên ăn vì giận" để rồi ngay cả trong cơn mộng mị vẫn băn khoăn một nỗi niềm cứu nước. Hình ảnh Lê Lợi vì thế mà đã trở thành biểu tượng tập trung của lòng yêu nước, căm thù giặc "thề không cùng sống".

Viết về Lê Lợi, Nguyễn Trãi chú trọng gợi lại những ngày tháng mà vị chủ tướng phải "nếm mật nằm gai", "đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời". Trong cảm nhận của người đọc, người chủ tướng Lam Sơn vừa vĩ đại lại vừa rất đời thường, gần gũi, tàng ẩn đằng sau sự miêu tả là một triết lí nhân sinh sâu sắc : mỗi người dân đều có thể hoá những anh hùng.

- Đã có người dựng cờ khởi nghĩa nhưng những ngày đầu, nghĩa quân còn phải đối diện với biết bao gian khổ : thiếu nhân tài, thiếu binh lính, thiếu quân lương. Nhưng khi "tấm lòng cứu nước" trở thành lời giục gọi thì đội quân "manh lệ chi đồ" mà "phụ tử chi binh" đã "gắng chí khắc phục gian nan" để đến được những thắng lợi cuối cùng. Có lẽ trong việc dùng binh xưa, Lê Lợi là người nhìn ra sớm nhất và cũng đồng thời đánh giá cao nhất vai trò, sức mạnh của những người dân ở tầng lớp đáy cùng (những người manh lệ).

Đoạn văn như bản trường ca hào hùng về khí thế quyết chiến, quyết thắng của nghĩa quân. Một lần nữa, Nguyễn Trãi nhắc lại để khắc sâu nguyên lí nhân nghĩa :

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Lời văn dịch chưa thật sát ý. Trong nguyên bản, Nguyễn Trãi đề : "Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo". Dưới ngọn cờ đại nghĩa, đội quân của nhà Lê lấy cái chí nhân để làm cho cường bạo phải đổi thay về bản chất chứ không phải cuộc khởi nghĩa chỉ làm một việc giản đơn (lấy chí nhân mà thay vào cường bạo). Câu văn trong nguyên tác thật sâu xa. Cái ác phải bị đổi thay và cái thiện, cái chính nghĩa phải làm cho cái ác phải đổi thay tận gốc.

Đoạn văn được viết sau nguyên lí nhân nghĩa là một đoạn hả hê, sảng khoái. Tiết tấu, âm điệu câu văn dồn dập, ồn ào như tiếng thác. Sự thay đổi đột ngột đó phù hợp với cái khí thế của quân ta đang lên như gió bão. Đoạn văn gợi hình dung toàn cảnh về những ngày tháng cả dân tộc sống trong không khí của sử thi. Những chiến thắng của nghĩa quân liên tiếp như "sấm vang chớp giật", như "trúc chẻ tro bay"... Theo đó thì sự thất bại của quân thù là tất yếu : "máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm", "thây chất đầy nội ; nhơ để ngàn năm". Hàng loạt những động từ mạnh kết hợp với nhạc điệu dồn dập, nhịp văn gấp gáp, hối hả gợi đầy đủ cái khí thế ào ào như vũ bão. Chính nghĩa lướt qua gian tà để cuốn phăng ra bể tất cả những tàn bạo, nhuốc nhơ.

Những cái "danh" không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã : Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh... Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao :

Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng ;
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Quân giặc đã "tham sống sợ chết", ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm "dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo" của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Hành động nhân ái của ta càng tô thêm cái chính nghĩa và lòng nhân đạo sáng ngời của dân tộc Việt.

* Bình Ngô đại cáo
là một áng "thiên cổ hùng văn" kết hợp hài hoà cái tinh tuý cá nhân và thời đại. Bằng một bút lực tuyệt vời, Nguyễn Trãi đã tự bất tử hoá tác phẩm của mình, biến nó thành một tác phẩm "vô tiền khoáng hậu" - mãi mãi là bài ca giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
 
H

heroineladung

Ấn đúng dùm mình nhé! Thanks!

Câu 2;
“Truyền kì mạn lục” do Nguyễn Dững Gia Phúc, Hồng Châu (nay thuộc tỉnh Hải Dương) sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, gồm 20 truyện. “Truyền kì mạn lục” là đỉnh cao đánh dấu bước trưởng thành của loại hình truyện ngắn, đc đánh giá là kiệt tác, bộ sách “thiên cổ kì bút” trong kho tang văn xuôi VN thời trung đại. “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên” là 1 trong những truyện đặc sắc của Nguyễn Dữ, ca ngợi đức cương trực, lg nghĩa khí và sự chiến thắng của kẻ sĩ đối với bọn gian tà; đồng thời tố cáo cường quyền phong kiến về bè với nhau hãm hại dân lành, lên án lũ giặc xâm lược, dù đã chết mà vẫn còn gây tội ác.
Diễn biến các sự việc trong “chuyện chức phán sự đền tản viên” cơ bản tuân theo trật từ thời gian, có khởi đầu, có cao trào và đi đến kết thúc có hậu. Chuyện kể về Ngô Tử Văn, tên là Soạn, quê ở Lạng Giang – Yên Dũng. Ngô Tử Văn là ng có tính cách cương trực, khẳng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà là ko thể chịu nổi. Cách giới thiệu nv theo motip kể truyện truyền thống đã tạo ấn tượng cho ng đọc về tính cách nv, x định rõ nét trong tính cách của kẻ sĩ. Hành động châm lửa đốt đền của Ngô Tử Văn xuất phát từ việc tên bộ tướng của Mộc Thạch thời nhà Minh là viên bách hộ họ Thôi tử trận ở gần ngôi đền thờ vị thần ng nc Việt, sau đó hồn ma họ Thôi tranh giành, cướp quyền vị thần ng Việt và “từ đấy làm yêu quái trong dân gian”. “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Sự tức giận của Tử Văn ko phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi ng dân đang bị yêu quái quấy nhiễu. Chàng “tắm gội sạch sẽ” để muốn chứng tỏ sự trong sạch của mình, hành động đốt đền là hành động chính nghĩa vì dân chứ ko phải 1 phút nông nổi. Chàng muốn trời chứng giám cho mình, muốn nhận đc sự ủng hộ từ trời và ng. Chính nhờ hành động đó mà Tử Văn thấy mình có sức mạnh, rất vững tâm. Mọi ng đều “lè lưỡi, lắc đầu, lo sợ thay cho Tử Văn”, nhưng chàng thì “vung tay ko cần gì cả”.Đối lập với sự sợ hãi và lo lắng của mọi ng, Tử Văn vẫn giữ vững bản lỉnh của mình. Chàng dám làm và dám chịu trách nhiệm về hành động đó, ko hề bị nao núng. Hành đọng kịch đạt kịch tính ở độ cao từ hành động đốt đền của Tử Văn. Câu chuyện có sức cuốn hút mạnh. Không nói ra, nhưng ko ai ko có câu hỏi dấy lên trong lg. Như vậy rồi sẽ ra sao?
Khi chàng về đến nhà thì “ko còn vung tay ko cần gì cả nữa, mà đã thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo, bụng run run…sốt nóng, sốt rét”. Trong cơn sốt Tử Văn thấy tên giặc xuất hiện trong hình dáng của 1 kẻ sĩ: đầu đội mũ trụ, cao lớn, khôi ngô, xưng là cư sĩ, cách trình bày ra vẻ trân trọng. Qua các hành động đã thể hiện đc sự giả dói của hắn. Hắn đến trách Tử Văn bắt đầu bằng nguyên lí đạo nho: “nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há ko biết cái đức của quỷ thần sao?”. Rồi hắn yêu cầu Tử Văn phải xây trả lại ngôi đền. Không những thế hắn còn đe dọa sẽ kiện Tử Văn ở Minh Ti. Đối lại, Tử Văn: “măc kệ, cues ngồi ngất ngưởng, tự nhiên”. Và khi tên giặc tức quá ko làm đc gì thì hắn phất áo ra đi, còn Tử Văn vẫn cứ 1 mực điềm nhiên. Qua hành động và dánh ngồi ngất ngưởng của Tử Văn, ta thấy đc thái đọ ngang tang, ngạo nghễ của chàng. Ở dáng ngồi ấy, Tử Văn dường như ko thèm để ý đến mọi lời của viên bách hộ họ Thôi. Bên ngoài Tử Văn ko hề biến đổi. Nhưng bên trong đã phục sẵn 1 tình thế đảo ngược: cái mặc kệ, ngất ngưởng của Tử Văn, cái bất biến ấy mới là sức mạnh so với cái vạn biến. Có điều ở đây nó chưa đc phép bộc lộ ra hết. Nó như 1 thứ im lặng, nhưng là 1 thứ im lặng nín hơi, thu sức vào bên trong, chờ đợi cơ hội. Cái gian tà cứ việc mà lên giọng, gào thét, cái cương nghị cứ lặng thinh như tảng đá lầm lì.
Tử Văn chưa hết ngạc nhiên về tên giặc tự xưng là thổ thần, thì bỗng thổ thần xuất hiện. Trái hẳn vs tên giặc, chỉ là “1 ông già, áo vải, mũ đen, từ tốn, lễ độ”, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh. Cách giới thiệu vẫn trân trọng, nhưng thân mật, gần gũi, đúng là 1 vị thổ thần dân tộc. Ông già kể sự thật về tên giặc kia cho Tử Văn nghe và cuối cùng ko quên dặn dò 1 cách tha thiết và tội nghiệp:” Nếu ko như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thấy cũng khó lg thoát nạn”.Thổ công cũng giúp Tử Văn cách chống lại tên giặc. Trái lại vs lúc đối mặt vs tên giặc Tử Văn ko nói 1 lời, thì nay Tử Văn nói năng linh hoạt, cởi mở hẳn lên. Tử Văn kêu sao lại lắm thổ thần, hỏi ông già sao lại ko kêu oan vs thượng đế?. Đặc biệt Tử Văn còn tỏ ra nao núng: “Hắn nếu thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi ko?” Tại sao vậy? Bởi đối vs tên giặc kia, TV phải giữ mình nên phải im lặng, giấu cái thực vào cái hư. Còn đối vs ông già thì TV coi là chỗ thân tình. Chỉ ngạc nhiên chút xíu sau đó là thông cảm, mến thg nên cũng chẳng giấu gì nỗi xao xuyến trong lgtrc thế lực of tên giặc kia. Ko xao xuyến làm sao đc, TV chỉ 1 mình, chỉ mỗi 1 tấm lg cưng trực, nghĩa khí. Vậy có # gì ông già chỉ “khư khư 1 tấm lg thành thực”. Ông già bị vùi dập thì TV cũng sẽ vậy. Cho nên nỗi lo sơ của ông già cuối đoạn văn cũng là nỗi lo sợ cho cả TV.
Bây giờ ko còn là cảnh trần gian nữa mà là cảnh âm ti. Tình thế đang ngày càng nguy hiểm vs TV. Bát đầu TV vung tay ko sợ, nhưng rồi sốt li bì, nay thì chết hẳn và bị quỷ sứ bắt đi rất gấp. Con đg đến minh ti, TV đi qua 1 con sông dài: thấy những con quỷ mắt xanh, tóc đỏ: đi qua cây cầu dài hơn nghìn thước : cảm nhận đc cái mùi tanh của cõi âm và song xám. Vs việc sử dụng gam màu tối & lạnh, tác giả đã khắc họa đc 1 đặc trưng của cõi âm lạnh lẽo và thiếu sinh khí.. Đến minh ti, TV gặp Diêm Vương, bị quát và đe dọa. TV ko hề nao núng, chàng trả lời rành rọt, rõ rang khiến cho Diêm Vương phải nghi ngờ. TV 1 mực kêu oan. Chàng đấu tranh đến cùng cho lẽ phải, công lí. Cuối cùng Diêm Vương đã cho ng đi điều tra. Sự thực chứng tỏ rành rành. TV đc minh oan, viên bách hộ họ Thôi bị trừng phạt. TV đc nhận chức phán sự. Đây là chức quan coi việc xử án. TV rất xứng đáng vs phần thưởng này bởi lẽ chàng là ng cương trực, biết lẽ đúng sai, phải trái, xứng đáng là ng giữ cán cân công lí.
mình mới làm đc có thế thui
yahoo_smiley.gif
yahoo_smiley.gif
yahoo_smiley.gif
yahoo_blush.gif
yahoo_blush.gif
 
H

heroineladung

Ấn đúng dùm mình nhé! Thanks!

Câu 3:

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều quay đoạn trích "Trao duyên"



"Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người"

(Tố Hữu)


Thật vậy, dù đi đâu dù guồng quay thời gian vẫn trôi thì “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vẫn còn vang mãi một khúc nhạc ai oán, đau đớn cho số phận “bảy nổi ba chìm” của nàng Kiều. Xinh đẹp là thế, tài tình là thế nhưng cuộc đời nàng sao phải chịu nhiều phong ba bão táp. Vì chữ hiếu nàng phải bán mình chuộc cha, để lại mối tình đang còn dang dở cho em mình là Thuý Vân, dù đau đớn nhưng số phận không cho nàng một con đường khác.

Đoạn trích “Trao duyên” thể hiện bi kịch tình yêu của nhân vật Thuý Kiều – bi kịch có nguồn gốc từ bi kịch gia đình họ Vương và gắn với bi kịch số phận nhân vật Thuý Kiều.

Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thuý Kiều khi chuẩn bị trao duyên cho Thuý Vân:


“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kễ từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy kòn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín xuối hãy còn thơm lây.”


Nếu trong màn “gia biến”, Thuý Kiều đã tỏ ra chủ động, dứt khoát giải quyết mâu thuẫn “ Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” để đi đến quyết định “bán mình chuộc cha”, thì trong màn “trao duyên” ta lại thấy sự lúng túng của Kiều. Nguyên nhân của sự lúng túng này chính là mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí đang diễn ra trong bản thân nàng trước một sự việc khó xử “đem duyên chị buộc vào duyên em”. Đó là một việc làm bất đắc dĩ cho cả hai người, mà trước hết là cho bản thân nàng Kiều. Bởi vậy, khi đặt vấn đề nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều đã tỏ một thái độ hết sức khiêm nhường, cung kính đối với người em gái cùa nàng:

“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”​


Lời nói của Kiều tuy mâu thuẫn với vị trí ngôi thứ chị em trong gia đình nhưng lại hợp tình trong cách xử thế của nàng lúc này.

Trong hai câu thơ đầu với từ “cậy” và “chịu lời” ta thấy được sự khẩn khoản, thiết tha nhưng cũng rất khó nói. Đồng thời với những cử chỉ bất thường không phù hợp với ngôi thứ trong gia đình “lạy” , “thưa”. Cái lạy của Kiều không bởi một việc gì khác, chỉ bởi sợi tơ duyên của nàng và Kim Trọng hãy còn dang dở, dù đã từng “đinh ninh hai miệng một lời song song” nhưng chẳng ngờ gặp cảnh gia biến, muốn trọn chữ hiếu tất nhiên khôn trọn chữ tình thế nên nàng mong rằng Thuý Vân vì mình trang trải cho xong. Kiều không muốn người yêu mình phải chịu chung nổi bất hạnh vì tình yêu tan vỡ, nên rất muốn nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều đặt nhiều hi vọng vào sự thông cảm của Vân, nhưng vẫn để cho Vân một khoảng tự do đinh liệu. Với điều đó ta thấy Kiều hết sức tôn trọng Vân, không hề ép buộc Vân trong việc rất khó xử này. Để diễn tả sự tế nhị trong lời nói Thuý Kiều chuẩn bị trao duyên cho Thuý Vân, Nguyễn Du đã sữ dụng thành ngủ “đứt gánh tương tư cùng với điển cố văn học Trung Quốc “keo loan” thật phù hợp:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”​


Nhằm thuyết phục Thuý Vân bằng lòng nhận lời trao duyên, Thuý Kiều đã gợi mối cảm tình bằng việc nhắc lại vẻ đẹp của những kỉ niệm tình yêu giữa nàng với chàng Kim

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”


Đồng thời, Kiều giải thích sự tan vỡ tình yêu của nàng là có nguồn gốc từ nỗi oan của gia đình họ Vương, cho nên tan vỡ là tất yếu, tuy nhiên tan vỡ nhưng vẫn đẹp. Từ đó,mặc dù trong thâm tâm nàng rất đau đớn, day dứt nhưng nàng vẫn tha thiết mong Thuý Vân nhận lời thay mình tiếp tục duy trì vẻ đẹp ấy:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu, tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”​


Không chỉ khơi gợi lòng cảm thông của người em gái, trong việc thuyết phục Thuý Vân nhận lời trao duyên, Thuý Kiều còn nói đến cả cái chết của mình để nhấn mạnh tính khẩn thiết của lời thỉnh cầu, đồng thời nàng như có ý ràng buộc Thuý Vân bằng tình máu mủ ruột thịt để Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”


Than ôi! Số phận mỏng manh, mối tình chẳng cho Kiều chắp, thôi thì lược khăn hầu hạ, tơ duyên đành cậy Vân xe. Có thể nói dưới ngòi bút của Nguyễn Du,nhân vật Thuý Kiều tỏ ra rất tế nhị và đã thuyết phục có lí có tình trong việc nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim.

Ở các câu thơ tiếp theo Thuý Kiều trao lại những kỉ vật tình yêu cho Thuý Vân và thực hiện lời trao duyên:

“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dầu em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên...
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa
Mai sau dầu có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Tưới xin giọt lệ cho người thác oan.”


Để củng cố niềm tin ở Thuý Vân vào vẻ đẹp trong sáng, thuỷ chung của mối tình với chàng Kim và để thực hiện việc trao duyên một cách rõ ràng cụ thể, Thuý Kiều đã trao cho Thuý Vân những kỉ vật tình yêu :

“Chiếc theo với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”


Với việc trao duyên cho Thuý Vân, Thuý Kiều đã làm tròn nghĩa vụ đối với chàng Kim. Nhưng sâu thẳm tâm hồn thì Kiều vẫn hướng tới chàng Kim, vẫn không muốn rời bỏ mối tình đầu và tình yêu của nàng với Kim Trọng vẫn tha thiết, sâu nặng. Cho nên khi trao duyên của mình, lẽ ra Kiều sẽ rất an tâm, bằng lòng. Song, Kiều lại bộc lộ một sự nuối tiếc rất kín đáo. Hai từ “của chung” bật ra trong lời nói của Kiều được Nguyễn Du thể hiện trong câu thơ cho ta thấy một sự luyến tiếc , đau đớn vô hạn của nàng đối với mối tình đầu thơ mộng.

Trong câu thơ ta thấy hàng loạt hình ảnh đối lập nhau hiển hiện trước mắt, xưa đẹp đẽ bao nhiêu thì giờ đây Kiều đau đớn, dằn vặt mình bởi mối tình tan vỡ, trong thâm tâm Kiều đang giằng xé giữa còn và mất, giữa riêng và chung, giữa hạnh phúc và bất hạnh. Do đó, trao duyên cho Thuý Vân rồi, nhưng lòng Kiều lại nhức nhối bao nỗi đắng cay, vì nàng thấy rõ những thiệt thòi , bất hạnh của mình. Bởi vậy, Kiều đã chân thành cầu mong một sự quan tâm từ xa ở con người may mắn, hạnh phúc là Thuý Vân đối với nàng – con người bất hạnh :

“Dầu em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên”​


Và nếu hình ảnh “Chiếc thoa với bức tờ mây” gợi lại quá khứ tình yêu của Thuý Kiều , đồng thời khép lại quá khứ ấy bằng hiện tại tan vỡ khổ đau, thì hình ảnh “Phím đàn với mảnh hương huyền” vừa gợi lại quá khứ tình yêu, vừa báo hiệu tương lai bất hạnh sẽ đến với nàng:

“Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa
Mai sau dầu có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”



Gợi lên những bước đi của tình yêu trong quá trình phát triển của thời gian từ “ngày xưa” đến “mai sau” như vậy, Thuý Kiều muốn nói lên một sự thật: dù phải trao duyên cho Thuý Vân, thì mối tình giữa nàng và chàng Kim vẫn không bao giờ dứt bỏ được, mối tình đó sẽ đi theo nàng vào cõi chết, và từ kõi chết Kiều vẫn không nguôi nhớ tới người yêu:

“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Tưới xin giọt lệ cho người thác oan.”


Bằng cách vận dụng một số điển cố văn học Trung Quốc để thể hiện lời trao duyên của Thuý Kiều , Nguyễn Du đã khắc hoạ rõ tâm trạng khổ đau và s ự giằng xé nội tâm dữ dội trong quá trình trao duyên. Tuy nhiên cuối cùng Thuý Kiều cũng th ực hiên được việc trao duyên, nhưng hơn bao giờ hết, nàng nhận thức được rằng nàng chính là “người mệnh bạc” , nàng chính là “người thác oan” trong tình yêu.

Trong những câu thơ cuối của đoạn trích ta thấy được tấm lòng của Thuý Kiều đối với Kim Trọng sau khi nàng đã trao duyên cho Thuý Vân:

“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”


So với Kim Trọng nàng tự nhận mình là “người thác oan”. Nhận thức rõ ràng những điều đắng cay đó, chứng tỏ Kiều cảm hiểu sâu sắc tính chất bi đát của sự tan vỡ tình yêu. Hình tượng “trâm gãy bình tan” được Nguyễn Du vận dụng ở đây có ý nghĩa tô đậm tính chất ấy.

“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”


Và, nếu như trước đó vì quan niệm Thuý Vân là ân nhân của mình nên Thuý Kiều đã tỏ thái độ đề cao, cung kính, thì lúc này hướng tới Kim Trọng ở phương xa, hướng tới ý trung nhân của đời mình, nàng cũng bộc lộ một thái độ hết sức đề cao, cung kính:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”


Nguyễn Du đã sử dụng một loạt các thành ngữ tiếng Việt để diễn tả lời tâm sự đầy khổ đau của Thuý Kiều nói với người yêu trong trí tưởng tượng của nàng, sau khi nàng đã chính thức trao duyên cho Thuý Vân. Trong giây phút phải nói lời chia ly đầy nước mắ, Thuý Kiều như hoảng loạng thảng thốt gọi tên người yêu, thể hiện một tình yêu thật mãnh liệt cùng với sự tiếc nuối vô hạn.

Càng thương nhớ người yêu,càng nuối tiếc cho mối tình cao đẹp, Thuý Kiều càng thêm đau xót trứơc sự tan vỡ của tình yêu. Bi kịch tình yêu hình thành và phát triển trong quá trình Thuý Kiều trao duyên đến đây đã tới đỉnh điểm và dâng trào thành những tiếng nấc nghẹn ngào, tê tái đến tuyệt vọng của nàng:

 
H

heroineladung

Câu 3 tiếp.

Làm tiếp câu 3 nhé!!!Dài quá!
-----------------------------------------------------------------------------------


“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”


Có thể nói đêm trao duyên là đêm đau khổ bởi tình yêu tan vỡ của Thuý Kiều. Để thể hiện cao trào tình cảm xót xa của Thuý Kiều khi tra duyê, Nguyễn Du như đã nhập tâm, hoà với nhân vật, chia sẽ bao nỗi niềm đau đáu, cùng bao tiếc nhớ khôn nguôi, khắc khoải.
Đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thuý Kiều bởi cách miêu tả nội tâm nhân vật chân thực hợp lí. Cùng cách xây dựng giải quyết nội tâm nhân vật đối thoại chuyển thành độc thoại nội tâm để nhân vật tự phơi bày, bộc lộ những tâm sự, khát vọng sâu kín.

Ngôn ngữ thơ trang trọng, bình dị cùng với sự kết hợp hài hoà, phù hợp các điển cố, từ cổ và thành ngữ tiếng Việt.

Qua đó ta cũng thấy được thái độ đồng cảm đến kì lạ của Nguyễn Du đối với tâm trạng đầy bi kịch của Thuý Kiều đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của Thuý Kiều giữa chữ hiếu và chữ tình. Nguyễn Du cũng lên án xã hội bất nhân tàn bạo đẩy con người vào những tình cảnh éo le, đau đớn.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, đoạn trích “Trao duyên” thật sự là một màn bi kịch, màn độc thoại nội tâm tiêu biểu trong “Truyện Kiều”.

(M.Diễm sưu tầm)

Phân tích đoạn trích "Nỗi thương mình"


Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cái cảnh "sống làm vợ khắp người ta" mà vẫn thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích "Nỗi thương mình".

"Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền"


Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: "Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa". Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.

Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.

Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là "Những nỗi lòng tê tái". Trong sách giáo khoa mới, "Nỗi thương mình" chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.

Có một bài toán "nan giải" đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử lí nghệ thuật độc đáo của mình.

Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, "khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là gì" đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá của Kiều.

Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:

"Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh"


Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: "bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm" và các điển tích điển cố: "lá gió cành chim", "Tống Ngọc, Trường Khanh" – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm.
Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ "đầy tháng, suốt đêm" là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà "ăn nên làm ra", lầu xanh như một chốn đang vào dịp "được mùa", "đắt khách". Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã được nói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí, Cung oán ngâm…

Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từ ghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơn nét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp. Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một cuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ "trận" để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là "trận cười". Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã "bọc lụa" cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.



 
Top Bottom