câu 5 đoạn cảnh ngày xuân đây
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam là danh nhân văn hoá thế giới. Truyện Kiều
là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn tríchCảnhngày xuân là một trong những đoạn trích
hay của Truyện Kiều, được trích ở phần một gặp gỡ và đính ước. Sau bức chân dung tài sắc của chị
em Thuý Kiều là bức hoạ về cảnh sắc mùa xuân trong tiết thanh minh và cảnh du xuân của trai tài
gái sắc. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân có 18 câu từ câu 39 đến 56 của Truyện Kiềutiêu biểu cho bút
pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của Nguyễn Du.
Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả bức tranh mùa xuân :
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vàibông hoa”
Một không gian nghệ thuật hữu sắc hữu hương hữu tình nên thơ được mở ra. Giưa bầu trời
bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi cách nói mùa xuân thân mật biết
bao. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình gợi cảm vút qua vút lai chao liệng để diễn tả thời gian trôi nhanh
mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân “Thiều Quang” của mùa xuân chín
chục đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân của thi sỹ thật thú vị
mùa xuân đã bước sang thángba ánh sáng của mùa xuân hồng ấm áp. Rồi còn cả sắc xanh mơn
mởn ngọt ngào của cỏ nỏn trải dài trải rộng như thảm “đến tận trân trời”. Còn sắc trắng tinh khôi
thanh khiết của hoa lê. Chỉ bằng vài nét thôi cộng với sự pha trộn màu sắc tài tình cảnh mùa xuân
hiện ra thật đẹp nó có sự mới mẻ và sức sống đang trỗi dậy của màu xanh của cỏ non có sự tinh
khôi tươi đẹp của những bông hoa lê trắng và bức tranh thật sống động bởi động từ điểm
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh chảy hội mùa xuân:
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gòđống kéo lên
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Lễ tảo mộ đi viếng, sửa sang phần mộ người thân, hội đạp thanh(dẫm lên cỏ xanh) đi chơi
xuânở chốn đồng quê. Điệp từ “lễ là…hội là”gợi nên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra bao
đời nay. Cảnhtrảyhội đông vui tưng bừng náo nhiệt. Trên các nẻo đường gần xa, những dòng
người cuồn cuộntrảy hội. Có biết bao yến anhtrảyhội(hìnhảnh ẩn dụ chỉ các nam thanh nữ tú).
Trong niềm vui nô nức hồ hởigiục giã. Có biết bao tài tử giai nhân dập dìu sánh vai, chân nối chân
nhịp bước. Dòng ngườitrảy hội tấp lập ngựa xe cuồn cuộn như nước áo quần đẹp đẽ tươi thắm sắc
màu nghìn nghịt đông vui trên các nẻo đường như nêm các từ ngữ “nô nức, dập dìu”, các hìnhảnh
so sánh “như nước như nêm”đã gợi tả mùa xuân tưng bừng náo nhiệt khắp mọi miền quê. Trẻ trung
xinh đẹp, sang trọng phong lưu trong đám tài tử giai nhân là ba chị em Kiều đang náo nức chuẩn bị
du xuân, các từ ghép “yến anh, chị em, tài tử giai nhân, ngựa xe,áo quần” (danh từ), “gần xa, nô
nức sắm sửa,dập dìu” (động từ, tính từ) được thi hào Nguyễn Du sử dụng làm sống lại không khí
mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hoá lâu đời của phươngĐông và nếp sống của chị em Thuý
Kiều.
“Ngổn ngang gòđống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Đời sống tâm tình phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn Du nối đến
với những cảm thông chia sẻ trước những ngôi mộ người ta rắc vàng thoi bạc giấy bày cỗ thắp nến
đốt nhang khấn vái để tưởng nhớ những người thân đã mất tạo ra một không gian giao hoà trong cõi
tâm linh mỗi con người.
Sáu câu thơ cuối ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang bước dần trở về. Mặt trời đẫ
tà tà gác núi. Ngày hội ngày vui đã trôi qua nhanh:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về”
Hội tan ngày tàn sao chẳng buồn. Nhịp thơ chậm rãi, nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình
“thơ thẩn” cử chỉ “dan tay” nhịp chân “bước dần” một cái nhìn man mác bâng khuâng “lần xem”.
Đối với mọi cảnh vật tất cả đều nhỏ bé khe suối chỉ là ngọn tiểu khê, phong cảnh thanh dòng nước
lao lao uốn quanh dịp cầu nho nhỏ uốn quanh cối gềnh. Cả một không gianêm đềm vắng lặng tâm
tình chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến sẽ nhìn thấy,
nên cặp mắt cứ lần xem gần xa. Các từ láy tượng hình “thanh thanh nao nao nho nhỏ”gợi lên sự
nhạt nhoà của cảnh vật và sự dung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan nỗi buồn man mác bâng
khuâng thấm sâu nan toả trong tâm hồn của giai nhân đa tìnhđa cảm.
Bằng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên theo trình tự thời gian không gian kết hợp tả với gợi tả
cảnh thể hiện tâm trạng. Từ ngữ giàu chất tạo hình sáng tạo nghệ thuật đối lập sử dụng từ ghép từ
láy. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ khoáng đạt tinh khôi thanh khiết mới mẻ và
đầy sức sống cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt và tâm trạng xốn sang náo nức của chị em
Thuý Kiều khi đi hội, tâm trạngbuồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về. Qua đây ta thấy Nguyễn
Du là người yêu thiên nhiên, hiểu lòng người, có tài khi miêu tả. Đoạn thơ đem đến cho chúng ta
cảm nhận được không khí mùa xuân giúp ta thêm yêu thiên nhiên quê hương đất nước.
(Nguồn: Sưu tầm)
.
câu 6
Nói đến Nguyễn Đình Chiểu không những là nói đến một nhà thơ yêu nước tiêu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ông còn được nhân dân biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn.
Lục Vân tiên – nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu hiện rõ nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sỹ đánh cướp cứu người.
Lục Vân tiên là một nhân vật lý tưởng, nhân vật đẹp nhất trong truyện “Lục Vân Tiên” của Nguuyễn Đình Chiểu. Chàng là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành, một người học trò khôi ngô, có tài, có đức, văn võ song toàn:
“Có người ở quận Đông Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành”
Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh: “Trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo quân tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chớ không phải là một ai khác”.
Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lý tưởng sống, đạo đức cao đẹp của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thi, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liến hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi cản bất bình, nổi giận:
“Vân Tiên nổi giận lôi đình
Hỏi thăm lũi nó còn đình nơi nao.
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
“Vân tiên ghé lạibên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông ; dẫu trước đó, dân làng hết sức khuyên chàng tuổi trẻ không nê dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào thân, nhưng Lục Vân tiên chủ động đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành đông “bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã khắc hoạ được hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương”. Ngay từ phần mở đầu truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “văn đà khởi phụng đằng giao – võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc này, chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. hình ảnh Vân Tiên tung hoành với chiệc gậy trong tay, tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc của mọi thế hệ. Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”:
“Lâu la bốn phía vờ tan
Đều quăng ươm giáo tìm đường chạy ngay”
Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tênđầu đảng thì:
“Phong lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Nhưng điều đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sỹ là thái độ vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì thoát nạn, cảm tạ chàng và xin được đền ơn:
“ Hà Khê qua đó cũng gần………..Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!”
Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”
Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao dung.
Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ tự nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào khác được. Vân Tiên cứu người mắc nạn là vì nghĩa, đó cùng chính là lý tưởng mà chàng ôm ấp và thực hiện:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mạng trong mình truyền thống trọng nghĩa khinh tài của dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng được người đời sau truền tụng, học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta một bài học lớn về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai hoạ và đau khổ của người khác. Trong xã hội ngày any, mẫu người như thế không phải là không có. Đọc báo, nghe đài , đọc sách chúng ta vẫn gặp họ đâu đó ở chỗ này, chỗ khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương.
Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sỹ sẵn sàng ra tay “trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện rõ. Trong lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải việc “cứu khốn, phò nguy” là không cần thiết nữa, do đo, Lục Vân Tiên vẫn góp phần giúp cho chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn với lời tâm niệm:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
nguồn : net