Ôn tập kiểm tra về thơ và truyện hiện đại

T

tuyetphuongnam_1997

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1.Tóm tắt tryện và nêu tình huống đặc sắc của các tác phẩm: Làng, Lặng lẽ Sa Pa, Chiếc lược ngà
2. Viết bài văn nêu cảm nghĩ về các nhân vật: ông Hai, anh thanh nien, ông Sáu, bé Thu
3. Phân tích ngắn gọn khổ cuối bài Bếp lửa, khổ cuối bài Ánh trăng, khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính, khổ đầu và khổ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá
 
G

greenshirt

tom tat:

2- LÀNG (KIM LÂN)



Ông Hai là người nông dân tha thiết yêu làng Chợ Dầu của mình. Do yêu cầu của uỷ ban kháng chiến, ông Hai phải cùng gia đình tản cư lên làng Thắng. Xa làng, ông nhớ làng da diết nên thường kể về làng mình một cách đầy tự hào Nhưng rồi một hôm, một tin đồn quái ác- làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây- khiến ông Hai vô cùng buồn khổ, tủi nhục suốt mấy hôm, không dám bước chân ra ngoài, chỉ biết tâm sự với thằng con út. Ông Hai nhất định không muốn quay về làng vì theo ông : "làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây rồi thì phải thù".
Sau đó, có người ở làng lên kể chuyện chiến đấu anh dũng của làng mình, cải chính lại tin đồn thất thiệt đó, ông hết sức vui mừng vì biết làng mình không theo giặc, ông đã hồ hởi đi khoe tin này cho mọi người, dù nhà ông đã bị Tây đốt cháy.
 
G

greenshirt

3- LẶNG LẼ SA PA ( NGUYỄN THÀNH LONG)





Câu chuyện xảy ra ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai vào năm 1970. Trên chuyến xe khách chạy từ thị xã Lào Cai đi Lai Châu, qua nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Sa Pa, có một hoạ sĩ già và một cô kĩ sư nông nghiệp trẻ vừa ra trường, lên Lai Châu nhận công tác. Xe chạy qua thị trấn Sa Pa, đến đỉnh Yên Sơn thì dừng lại nghỉ 30 phút. Trong thời gian nghỉ này, ông hoạ sĩ gìa, cô kĩ sư trẻ, bác lái xe và anh thanh niên làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn, Sa Pa đã gặp gỡ nhau. Và anh thanh niên đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Hoàn cảnh sống và làm việc của anh; cách sống, suy nghĩ và tình cảm của anh đối với mọi người đã làm cho người hoạ sĩ già cảm nhận được rằng: Trong cái lặng im của Sa Pa ... có những người làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
 
G

greenshirt

4- CHIẾC LƯỢC NGÀ (NGUYỄN QUANG SÁNG)





Sau nhiều năm xa cách vợ con, ông Sáu được về nhà nghỉ phép. Thế nhưng, con gái ông là bé Thu lại không nhận ra cha mình do có vết sẹo mới trên mặt khiến ông không giống như trong ảnh. Trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi đó, ông ở nhà suốt để vỗ về con và cho con cái cảm giác có cha ở bên. Thế nhưng bé Thu không chịu nhận cha, càng ngày càng ương bướng, thậm chí lúc được cha gắp cho cái trứng cá, bé đã hất ra. Ông Sáu nổi giận, đánh cho. Bé buồn chạy sang nhà bà, kể hết mọi chuyện cho bà. Được bà giải thích, bé hiểu ra và trong giây phút cuối cùng trước khi cha trở lại chiến trường, bé đã nhận cha trong sự xúc động của mọi người và bé đã vòi cha mua cho mình một chiếc lược.
Xa con, ông Sáu nhớ mãi lời dặn của con. Tình cờ một lần cả tiểu đội săn được con voi, anh cưa lấy khúc ngà, và ngày ngày tỉ mẩn làm cho con gái cây lược. Ngày ngày, ông đem chiếc lược ra ngắm cho đỡ nhớ. Trước lúc hy sinh, ông Sáu và giao lại cây lược cho một người đồng đội nhờ chuyển cho Thu.
Chiếc lược ngà được người đồng đội ấy trao lại cho Thu một cách tình cờ, khi cô làm giao liên dẫn đường cho đồng chí ấy trong kháng chiến chống Mĩ
 
G

greenshirt

Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân th¬ường thổ lộ rằng ông muốn thể hiện con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trư¬ờng hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành ra một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì nhà văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất nư¬ớc trở thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tư¬ợng đặc sắc. Truyện ngắn Làng, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng nói:
"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đư¬a vào Làng. Lúc ấy Tây còn đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng chiến đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư¬ luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu theo Tây làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".
Tình yêu quê hư¬ơng đất nư¬ớc trong mỗi con ngư¬ời cụ thể mang một hình hài riêng. Có thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khai hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái m¬ượt mà hay hùng tráng của một ca khúc ca ngợi tình ngư¬ời, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung với cái làng của mình, của một ngư¬ời nông dân phải rời làng đi tản c¬ư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành công của truyện Làng chính là ở hình tư¬ợng nhân vật lão Hai với những trạng huống tâm lí, ngôn ngữ đ¬ược khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, để nhân vật bộc lộ đ¬ược tâm lí hay ngôn ngữ, trư¬ớc hết, nhà văn phải xây dựng đ¬ược tình huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ đư¬ợc thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thư¬ờng được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản c¬ư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó ch¬ưa phải là tình huống. Phải đến khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết đ¬ược sự thực làng của ông không theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến điều thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con ngư¬ời ông. Cái làng đối với ng¬ười nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, ng¬ười nông dân gắn bó với cái làng nh¬ư máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nư¬ớc đối với họ. Trư¬ớc Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn h¬ương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi m¬ười mấy năm trời mới lại đ¬ược trở về quê hư¬ơng bản quán". Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha h¬ương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như¬ đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên nh¬ư trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trư¬ớc Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi ch¬a thấy cái dinh cơ nào mà lại đ¬ợc nh¬ư cái dinh cơ cụ th¬ượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nh¬ưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "ng¬ười ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức đ¬ược nó làm khổ mình, làm khổ mọi ngư¬ời, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,... Cũng vì yêu làng quá nh¬ư thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư¬. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư¬ ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít c¬ười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản cư¬, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như¬ trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà, đùng một cái ông nghe đư¬ợc cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con ngư¬ời khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng ngư¬ời: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như¬ đến không thở đ¬ợc. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như¬ vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, n¬ớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị ngư¬ời ta rẻ rúng hắt hủi đấy? ********, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực nhục chư¬a, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai ngư¬ời ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nư¬ớc Việt Nam này ngư¬ời ta ghê tởm, ngư¬ời ta thù hằn cái giống Việt gian bán nư¬ớc...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe nh¬ư tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi ngư¬ời, "không dám bư¬ớc chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là ngư¬ời của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có ngư¬ời chợ Dầu người ta cũng đuổi như¬ đuổi hủi Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ ngư¬ời ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và "Nư¬ớc mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- à, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
N¬ớc mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một ngư¬ời son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ nh¬ư minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như¬ lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong ngư¬ời nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể ng¬ười nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc tr¬ưng của một ngư¬ời nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như¬ trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui s¬ướng càng tư¬ng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai nh¬ư ng¬ười vừa đ¬ược hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại đ¬ược khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tư¬ơi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Như¬ng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "ng¬ười làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại đư¬ợc sống như¬ môt người yêu n¬ước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Ngư¬ời đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình nh¬ư thế. Mặt khác, cũng như¬ các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu theo giặc, bà chủ nhà,)... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, ngư¬ời đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là ***** chúng nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá h¬ưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của ngư¬ời nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nh¬ưng từ ngữ chư¬a hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Kim Lân đã từng đ¬ược đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn t¬ượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, ngư¬ời đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nư¬ớc, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như¬ trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.
 
G

greenshirt

cam nhan ve ong hai trong tac pham lang cua kim lan

Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân th¬ường thổ lộ rằng ông muốn thể hiện con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trư¬ờng hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành ra một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì nhà văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất nư¬ớc trở thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tư¬ợng đặc sắc. Truyện ngắn Làng, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng nói:
"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đư¬a vào Làng. Lúc ấy Tây còn đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng chiến đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư¬ luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu theo Tây làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".
Tình yêu quê hư¬ơng đất nư¬ớc trong mỗi con ngư¬ời cụ thể mang một hình hài riêng. Có thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khai hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái m¬ượt mà hay hùng tráng của một ca khúc ca ngợi tình ngư¬ời, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung với cái làng của mình, của một ngư¬ời nông dân phải rời làng đi tản c¬ư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành công của truyện Làng chính là ở hình tư¬ợng nhân vật lão Hai với những trạng huống tâm lí, ngôn ngữ đ¬ược khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, để nhân vật bộc lộ đ¬ược tâm lí hay ngôn ngữ, trư¬ớc hết, nhà văn phải xây dựng đ¬ược tình huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ đư¬ợc thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thư¬ờng được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản c¬ư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó ch¬ưa phải là tình huống. Phải đến khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết đ¬ược sự thực làng của ông không theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến điều thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con ngư¬ời ông. Cái làng đối với ng¬ười nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, ng¬ười nông dân gắn bó với cái làng nh¬ư máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nư¬ớc đối với họ. Trư¬ớc Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn h¬ương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi m¬ười mấy năm trời mới lại đ¬ược trở về quê hư¬ơng bản quán". Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha h¬ương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như¬ đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên nh¬ư trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trư¬ớc Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi ch¬a thấy cái dinh cơ nào mà lại đ¬ợc nh¬ư cái dinh cơ cụ th¬ượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nh¬ưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "ng¬ười ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức đ¬ược nó làm khổ mình, làm khổ mọi ngư¬ời, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,... Cũng vì yêu làng quá nh¬ư thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư¬. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư¬ ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít c¬ười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản cư¬, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như¬ trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà, đùng một cái ông nghe đư¬ợc cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con ngư¬ời khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng ngư¬ời: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như¬ đến không thở đ¬ợc. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như¬ vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, n¬ớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị ngư¬ời ta rẻ rúng hắt hủi đấy? ********, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực nhục chư¬a, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai ngư¬ời ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nư¬ớc Việt Nam này ngư¬ời ta ghê tởm, ngư¬ời ta thù hằn cái giống Việt gian bán nư¬ớc...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe nh¬ư tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi ngư¬ời, "không dám bư¬ớc chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là ngư¬ời của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có ngư¬ời chợ Dầu người ta cũng đuổi như¬ đuổi hủi Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ ngư¬ời ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và "Nư¬ớc mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- à, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
N¬ớc mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một ngư¬ời son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ nh¬ư minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như¬ lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong ngư¬ời nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể ng¬ười nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc tr¬ưng của một ngư¬ời nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như¬ trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui s¬ướng càng tư¬ng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai nh¬ư ng¬ười vừa đ¬ược hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại đ¬ược khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tư¬ơi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Như¬ng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "ng¬ười làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại đư¬ợc sống như¬ môt người yêu n¬ước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Ngư¬ời đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình nh¬ư thế. Mặt khác, cũng như¬ các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu theo giặc, bà chủ nhà,)... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, ngư¬ời đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là ***** chúng nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá h¬ưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của ngư¬ời nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nh¬ưng từ ngữ chư¬a hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Kim Lân đã từng đ¬ược đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn t¬ượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, ngư¬ời đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nư¬ớc, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như¬ trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.
 
G

greenshirt

Chiếc l¬ược ngà (1966) là một trong những truyện ngắn xuất sắc thời kì chống Mĩ. Với một tình huống độc đáo, câu chuyện cảm động về tình cha con đã phản ánh sâu sắc tình cảm con ng¬ười trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Đoạn trích từ "Các bạn! Mỗi lần nhìn thấy cây lư¬ợc ngà nhỏ ấy..." cho đến "Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi." thể hiện rõ chủ đề tư¬ tưởng cũng như¬ những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng đư¬ợc một cốt truyện đầy tính bất ngờ, có sức cuốn hút ngư¬ời đọc. Tình huống không chịu nhận ba của bé Thu là bất ngờ đầu tiên. Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chư¬a đầy một tuổi. Từ đó hai ba con chư¬a hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc, anh trở về, đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như¬ trong bức ảnh chụp ngày cư¬ới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lư¬ợc. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc l¬ược đã làm xong nhưng chư¬a kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
Những sự việc chính của câu chuyện trong đoạn trích là như¬ vậy. Nhưng độ căng và tính bất ngờ của nó chỉ đư¬ợc đẩy lên đỉnh điểm khi trong từng sự việc tác giả đã miêu tả những diễn biến tâm lí của nhân vật một cách tinh tế, sinh động. Tình cha con sâu nặng bộc lộ trong những tình huống éo le, ngặt nghèo của bom đạn chiến tranh. Bản thân cốt truyện của đoạn trích Chiếc lược ngà đã có giá trị tố cáo tội ác chiến tranh đối với cuộc sống con ng¬ười. Cha con tám năm trời không gặp nhau là do chiến tranh. Vết thẹo làm biến dạng khuôn mặt anh Sáu, khiến con bé không nhận ra ba là do chiến tranh. Và thật đau xót, ngư¬ời cha chư¬a kịp trao cho đứa con hết mực yêu thư¬ơng của mình kỉ vật như¬ lời hứa thì chiến tranh đã cướp đi sinh mạng anh. Tuy nhiên, cái mà tác giả tập trung thể hiện là những con ng¬ười, là nhân vật.
Tác giả đã chứng tỏ tài năng của mình trong việc xây dựng nhân vật một bé gái tám tuổi bướng bỉnh và gan góc. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một ngư¬ời ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cư¬ới. Nó nhất quyết không chịu nhận ba, không gọi ba vì thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn ngư¬ời cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Chi tiết gọi "trổng" và chi tiết chắt nư¬ớc cơm đã khắc hoạ nổi bật sự đáo để hồn nhiên của bé Thu. Đặc biệt là chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tư¬ởng đâu "con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Như¬ng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, b¬ước ra khỏi mâm". Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết đ¬ược sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, như¬ng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu. Nh¬ưng lẽ nào ở bé Thu chỉ là sự b¬ướng bỉnh, gan góc đến đáo để? Không hề giản đơn như vậy, trong buổi sáng cha nó lên đư¬ờng:
"Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi ngư¬ời đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thư¬ơng. Với đôi mi dài uốn cong, và như¬ không bao giờ chớp, đôi mắt nó như¬ to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa."
Cho đến khi nghe tiếng kêu thét lên: "- Ba.. a... a...ba!" thì mọi ng¬ười mới vỡ lẽ ra rằng nó thèm đ¬ợc gọi ba như¬ thế nào, "Tiếng kêu của nó như¬ tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi ng¬ười, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi. Song, trái ngư¬ợc mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát đư¬ợc có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi nh¬ư xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thư¬ơng yêu con vô hạn của ngư¬ời cha.
Ngư¬ời đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh một ngư¬ời cha, người cán bộ cách mạng xúc động dang hai tay chờ đón đứa con gái bé bỏng duy nhất của mình ùa vào lòng sau tám năm xa cách. Mong mỏi ngày trở về, nóng lòng được nhìn thấy con, đư¬ợc nghe tiếng gọi "ba" thân thư¬ơng từ con, anh Sáu thực sự bị rơi vào sự hụt hẫng: "anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy". Mong mỏi bao nhiêu thì đau đớn bấy nhiêu. Anh cũng không ngờ rằng chính bom đạn chiến tranh vừa là nguyên nhân gián tiếp, vừa là nguyên nhân trực tiếp của nỗi đau đớn ấy. Tám năm xa vợ xa con, ở nhà được ba ngày rồi lại lên đ¬ờng, và ra đi mãi... Ba ngày anh đ¬ược ở nhà anh chẳng đi đâu xa, để được gần gũi, vỗ về bù đắp những ngày xa con. Lòng người cha ấy đau đớn biết như¬ờng nào khi đứa con là máu mủ của mình gọi mình bằng "người ta": "Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cư¬ời. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc đư¬ợc, nên anh phải cười vậy thôi". Cử chỉ gắp từng miếng trứng cá cho con cho thấy anh Sáu là ng¬ười sống tình cảm, sẵn sàng dành cho con tất cả những gì tốt đẹp nhất. Và chao ôi là hình ảnh hai đôi mắt của hai cha con trong thời khắc chia xa: "Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao". Ngư¬ời cha ấy sẽ ra đi khi ch¬ua đ¬ược gọi bằng "ba" lấy một lần. Đến tận giây phút cuối cùng, khi không còn thời gian để chăm sóc vỗ về nữa, anh mới thực sự đư¬ợc làm cha. Đó là sự thiệt thòi, là sự hi sinh không thể xem là nhỏ của ng¬ười chiến sĩ cách mạng. Dầu sau này anh Sáu có hi sinh cả tính mạng của mình.
Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện xư¬ng "tôi" có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện giữa cha con anh Sáu. Đoạn trích bắt đầu với hình ảnh chiếc l¬ược ngà, khép lại cũng với hình ảnh chiếc lư¬ợc ngà. Ng¬ười kể chuyện kể lại câu chuyện cảm động đã xảy ra, khi anh còn chưa thực hiện được ý nguyện cuối cùng của anh Sáu trước lúc hi sinh: trao lại tận tay con gái kỉ vật của người cha. Người cha ấy đã vui mừng "hớn hở như¬ trẻ được quà" khi kiếm được khúc ngà để làm lư¬ợc tặng con gái như lời hứa lúc ra đi. Anh "cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như ngư¬ời thợ bạc.[...] anh gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba"". Nơi rừng sâu, tất cả nỗi nhớ, tình thư¬ơng yêu con của anh dồn cả vào công việc ấy, chiếc lược ấy. Ngư¬ời cha nâng niu chiếc lược ngà, ngắm nghía nó, mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt, "Cây lược ngà ấy chưa chải lư¬ợc mái tóc của con, như¬ng nó như¬ gỡ rối đư¬ợc phần nào tâm trạng của anh". Chiếc lư¬ợc ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, không ai hiểu nhau hơn những ngư¬ời đồng đội, gần nhau hơn những ngư¬ời đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay Thu chiếc lược , giữa thu và ngư¬ời đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm giống như¬ tình cha con.
Đoạn trích Chiếc lư¬ợc ngà đã đạt đ¬ược giá trị sâu sắc cả về nội dung và hình thức biểu đạt. Hình t¬ợng chiếc l¬ược ngà và câu chuyện giữa hai cha con ngư¬ời cán bộ cách mạng sẽ còn gây đ¬ược xúc động lâu bền trong lòng ng¬ười đọc.
 
G

greenshirt

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng mà sâu sắc, thẫm đẫm chất thơ. Nhẹ nhàng, kín đáo như Sa Pa thành phố trong sư¬ơng, và cũng giàu sức sống với hoa trái ngát hương bốn mùa. Lặng lẽ mà không buồn tẻ, những con ngư¬ời nơi đây đang từng ngày thầm lặng cống hiến sức lực của mình, thầm lặng đem lại hương sắc cho cuộc sống. Đọc truyện ngắn này, chúng ta chúng ta có thể đồng cảm với nhau:
"Sa Pa không chỉ là một sự yên tĩnh. Bên dư¬ới sự yên tĩnh ấy, ngư¬ời ta làm việc!"
Theo lời giới thiệu của bác lái xe, cái con ng¬ười "cô độc nhất thế gian" là một thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tư¬ợng kiêm vật lí địa cầu. Trong câu chuyện phác thảo chân dung của bác lái xe, đáng chú ý là chuyện "thèm ngư¬ời" của anh chàng "cô độc nhất thế gian" kia. Không phải anh ta "sợ người" mà lên làm việc ở đây, trái lại, anh ta từng chặt cây ngáng đư¬ờng ngăn xe dừng lại để được gặp người "nhìn trông và nói chuyện một lát".
Qua cái nhìn của ngư¬ời hoạ sĩ, anh thanh niên hiện ra với "tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ". Anh ta sống trong "Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giư¬ờng con, một chiếc bàn học, một giá sách.". Một cuộc sống giản dị, ngăn nắp của một ng¬ười yêu đời, say mê công việc và không có vẻ gì của sự buồn chán.
Trong sự cảm nhận của cô kĩ sư¬ mới ra trư¬ờng, cuộc sống của người thanh niên là "cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp", anh mang lại cho cô "bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên".
Nếu như¬ người hoạ sĩ lão thành mới chỉ ghi đư¬ợc "lần đầu gư¬ơng mặt của ngư¬ời thanh niên" thì chính những lời tâm sự của một kẻ "thèm ngư¬ời" khi được gặp người đã là một bức chân dung tự hoạ khá hoàn chỉnh. Chân dung là gì nếu không phải là những nét vẽ tinh thần, những nét gợi tả phẩm chất? Những nét tự hoạ của anh thanh niên về cả những con ngư¬ời đang làm việc như¬ anh khiến người hoạ sĩ già, dù đã trải nhiều chuyện đời phải suy ngẫm rất nhiều:
"Ngư¬ời con trai ấy đáng yêu thật, như¬ng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho ngư¬ời ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp ngư¬ời."
Vậy những điều gì ở chàng thanh niên đã làm cho ngư¬ời hoạ sĩ già suy nghĩ và thậm chí làm thay đổi cả cái quan niệm về mảnh đất Sa Pa vốn có trong ông?
Nỗi "thèm ngư¬ời" ở anh thanh niên không phải nỗi nhớ cuộc sống đông đúc, tiện nghi, an nhàn, như anh nói: "Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng". Người thanh niên hiểu rất rõ công việc của mình, chấp nhận sống trong hoàn cảnh buồn tẻ, cô độc để làm công việc "đo gió, đo mư¬a, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trư¬ớc thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Như¬ng con ng¬ười ấy không hề thấy buồn tẻ, cô độc. Cái sự "thèm người" của chàng thanh niên là lẽ bình th¬ờng của con ng¬ười, nhất lại là tuổi trẻ. Anh sống với triết lí: "khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình đư¬ợc?". Đư¬ợc làm việc có ích đối với anh thế là niềm vui. Hơn nữa công việc của anh gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí khác ở những điểm cao hơn hoặc thấp hơn. Ngư¬ời hoạ sĩ đã thấy bối rối khi bất ngờ đư¬ợc chiêm ng¬ưỡng một chân dung đẹp đẽ đến thế: "bắt gặp một con ng¬ười nh¬ư anh là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nh¬ng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài". Và chắc chắn ông sẽ còn bối rối khi muốn dựng lên chân dung của Sa Pa. Bởi vì, trong sự tự hoạ của chàng trai còn hiện ra những chân dung khác nữa, cũng quên mình, say mê với công việc nh¬ư anh kĩ s¬ư ở vườn rau d¬ưới Sa Pa "Ngày này sang ngày khác... ngồi im trong vư¬ờn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào...", nhà nghiên cứu sét mười một năm không rời xa cơ quan một ngày vì sợ có sét lại vắng mặt. Cái lặng lẽ của cảnh sắc Sa Pa thì cây cọ trên tay ngư¬ời hoạ sĩ có thể lột tả không mấy khó khăn, như¬ng cái không lặng lẽ của Sa Pa như¬ ông đã thấy qua những con ngư¬ời kia thì vẽ thế nào đây? Ngư¬ời hoạ sĩ nhận thấy rất rõ "sự bất lực của nghệ thuật, của hội hoạ trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời".
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy trong Lặng lẽ Sa Pa, có hai nhân vật hầu như¬ chỉ lặng lẽ nghe và suy ngẫm. Đó là ngư¬ời hoạ sĩ và cô kĩ sư¬ trẻ. Trước chàng trai trẻ trung yêu đời, hiểu và yêu công việc thầm lặng của mình, ngư¬ời hoạ sĩ nhận ra rằng Sa Pa, cái tên mà chỉ nghe đến "người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi", có những con ngư¬ời làm việc và lo nghĩ cho đất nư¬ớc. Thoạt đầu, đáp lại lời bác lái xe, ngư¬ời hoạ sĩ nói: "Thích chứ, thích lắm. Thế nào tôi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế. Như¬ng bây giờ chư¬a phải lúc". Sau khi gặp, đư¬ợc nghe chàng thanh niên nói, được chứng kiến và hiểu cuộc sống của những con người đang làm việc thực sự, cống hiến thực sự, quan niệm của ngư¬ời hoạ sĩ đã thay đổi. Lúc chia tay, ngư¬ời hoạ sĩ già còn chụp lấy tay ngư¬ời thanh niên lắc mạnh và nói: "Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh mấy hôm đư¬ợc chứ?" Đây không chỉ là sự thay đổi trong cái nhìn về Sa Pa mà còn là sự thay đổi trong quan niệm của một nghệ sĩ về cuộc sống, về cái đẹp. Còn cô gái? Khi từ biệt, "Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như ngư¬ời ta trao cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay". Cô đã hiểu đư¬ợc nhiều điều từ cuộc sống, công việc của chàng trai. Có lẽ trong cái bắt tay ấy là niềm tin, là ý nghĩa đích thực của lao động, là cả sự thầm lặng cống hiến cho đời,... Những điều đó sẽ giúp cô vững vàng hơn trong những bước đầu tiên vào đời.
Nguyễn Thành Long đã cho ngư¬ời đọc thấy cái không lặng lẽ của Sa Pa. Với những nét vẽ mộc mạc, bức chân dung về mảnh đất trên cao ấy có sức ấm toả ra từ những bàn tay, khối óc đang từng ngày bền bỉ, thầm lặng cống hiến.
 
Top Bottom