Văn 10 Ôn tập kiểm tra giữa kì II <Nghị luận về 1 đoạn trích ( Bình Ngô Đại Cáo )>

Nhi's Bướng's

Học sinh chăm học
Thành viên
4 Tháng tư 2017
360
493
101
18
Phú Thọ
THPT Tân Sơn
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Cô giáo mình có cho ghi định hướng ôn tập kiểm tra giữa học kì II
Cấu trúc có 2 phần chia theo 40% 60%
40 là đọc hiểu còn 60 là làm văn
Về ngữ liệu phần đọc hiểu thì ngoài sgk và bắt buộc thuộc thời kì trung đại và thể loại là phú; ngâm khúc; văn tế hoặc nghị luận trung đại
Những ai đã thi hoặc có tài liệu về phần này như trên thì cho mình xin ạ!
Còn về làm văn thì cô mình nói đề là một câu nghị luận văn học và cụ thể là nghị luận về một đoạn trích trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo.
Mình có viết và có một mong muốn là mọi người có thể nhận xét và góp ý ạ!
Mọi người có thể truy cập vào link drive: https://docs.google.com/document/d/1HuWD7nBYZqwX_a8pA9qWG-YBgJyliwik5XSKDHZy3XU/edit
Hoặc đọc bài dưới đây ạ
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, là vị anh hùng của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Ông không những là một nhà quân sự đại tài mà còn là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Mặc dù cuộc đời ông phải gánh chịu nhiều bất hạnh, trải qua nhiều thăng trầm và chết trong oan khuất nhưng ông vẫn để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ, có giá trị nhiều mặt. Một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn học của ông đó chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
Cuối năm 1427, sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) soạn thảo Đại cáo bình Ngô để tổng kết toàn diện cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, báo cáo cho toàn dân được biết. Bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi ( tức đầu năm 1428 ).
Tác phẩm được viết theo thể Cáo. Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc. Bài đại cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục ( từng cặp câu mỗi câu 10 chữ, ngắt nhịp theo nhịp 4/6), hình tượng nghệ thuật sinh động, gợi cảm.
Đại cáo không chỉ là một bài cáo thông thường mà là một bài cáo có ý nghĩa trọng đại, to lớn để bố cáo tới khắp người dân trên đất nước. Bình là bình định với ý nghĩa dẹp tan giặc dã, là chiến thắng. Ngô là chỉ giặc phương Bắc nói chung và cũng có thể là gọi cả tên tổ của giặc Minh.
Từ đó khẳng định niềm tự hào và sức mạnh dân tộc. Thể hiện sự coi thường, khinh bỉ đối với giặc Minh. Bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa : Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập của dân tộc (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”). Phần 2 là lên tiếng tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc Minh (tiếp theo phần 1 cho đến “Ai bảo thần dân chịu được”). Phần 3 là kể lại diễn biến của cuộc kháng chiến từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với sức mạnh của lòng yêu nước (tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”). Phần còn lại - phần 4 là phần tuyên ngôn chiến thắng, kết thúc chiến tranh và rút ra bài học lịch sử, sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu nguyên lí chính nghĩa. Tiền đề cơ sở lí luận cho cuộc kháng chiến là tư tưởng nhân nghĩa.Tác giả đề cập tới tư tưởng nhân nghĩa cái cốt lõi là yên dân và trừ bạo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Cốt là cốt lõi, là những gì quan trọng nhất và trong tư tưởng nhân nghĩa của tác giả, cái cốt lõi chính là ở yên dân và trừ bạo. Yên dân là bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho nhân dân, tiêu trừ tham tàn và bạo lược. Trừ bạo gắn liền với tư tưởng yêu nước, phải tiêu diệt giặc ngoại xâm. Tư tưởng tiến bộ, lấy dân làm gốc của tác giả đã vạch trần được luận điệu bịp bợm và xảo trá của kẻ thù.
Sau đó, tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc qua những câu thơ:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Ý thức độc lập dân tộc ở Sông núi nước Nam chỉ mới xác định chủ yếu ở hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Đến Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm ba yếu tố: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Những yếu tố này đã khắc sâu thêm và khẳng định mạnh mẽ chủ quyền độc lập của dân tộc. Ý thức dân tộc rõ ràng đã được phát triển cao hơn và toàn diện hơn những điều đặc sắc mới mẻ nhất là bên cạnh “ vua “ ( “đế” ) vẫn được tôn trọng như người đại diện cho đất nước , thì yếu tố dân đã xuất hiện trong bản tuyên ngôn độc lập thứ hai này: “dân” đã trở thành đối tượng để bài cáo hướng tới trong việc thực hiện nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Ý thức dân tộc ở Đại Cáo Bình Ngô đã có một bước phát triển cao hơn về chất lượng khi vai trò của người dân đã có mặt trong một văn bản quan trọng của nhà nước phong kiến, khi đó trong con mắt nhìn của tác giả đã có mối liên hệ gắn bó giữa “nước” và “dân”.
Những biểu hiện như : nền văn hiến đã lâu ; lãnh thổ của quốc gia dân tộc : núi, sông, bờ cõi ; phong tục tập quán ; lịch sử của dân tộc, quá khứ của những triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần; đã khẳng định Đại Việt là nước có quyền độc lập tự chủ một cách toàn diện. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh văn hiến và truyền thống lịch sử là yếu tố căn bản, nhấn mạnh văn hiến và lịch sử là cốt lõi để khẳng định về chủ quyền dân tộc.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Đế là vua, là thiên tử. Mỗi bên là một phương, một quyền độc lập. Khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc,các triều đại nước ta dựng nước và giữ nước từ bao ngàn đời nay, tồn tại song hành cùng các triều đại khác của Trung Quốc. Đồng thời thể hiện các triều đại của nước ta sánh ngang hàng với những triều đại của Trung Quốc,không hề kém kém cạnh. Các từ ngữ “ từ trước “, “vốn xưng”, “ đã lâu “, “ đã chia”, “ bao đời “, cho thấy đó những sự thật lịch sử hiển nhiên, là quy luật vốn có. Để khẳng định chủ quyền dân tộc, tồn tại là một điều hiển nhiên, tất yếu dựa trên thực tiễn lịch sử.
Tác phẩm được viết theo thể văn biền ngẫu là cách ngắt nhịp đầy biến hóa, hài hòa, linh động, sáng tạo, phù hợp với mạch cảm xúc. Bên cạnh giọng điệu giọng điệu hùng hồn, đanh thép. Ngôn ngữ giàu tính luận chiến, có độ khái quát cao. Không chỉ thế, thơ ông còn thành công với biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, liệt kê và đặc biệt là sử dụng thành công phép đối. Qua đó, Nguyễn Trãi đã thành công truyền tải nội dung sâu sắc, khẳng định chủ quyền tuyệt đối của dân tộc, nêu bật được tư tưởng nhân nghĩa vì nhân dân, khẳng định nền hòa bình mới giành lại của đất nước.
Bài học lấy dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân đạo, nhân bản cao cả làm nền tảng hành động vẫn là một tiền đề quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Mọi sự phát triển của dân tộc, đất nước đều là sự tiếp thu, phát huy và phát triển các giá trị của quá khứ. Đại Cáo Bình Ngô là bản anh hùng ca vang dội của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, là áng “thiên cổ hùng văn” có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Tác phẩm đánh dấu một bước phát triển tư tưởng của dân tộc Việt Nam trên đường phát triển. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.
Ngoài ra cô giáo có ghi hướng dẫn cách làm như sau đây:
- Mở bài : Giới thiệu tác giả tác phẩm : Vấn đề nghị luận ( đề bài sẽ cho 1 trong 4 vấn đề )
Phạm vi bài học
TB: Đoạn khái quát: Giới thiệu về đặc điểm sáng tác, sự nghiệp của tác giả. Nét nổi bật nhất về phong cách nghệ thuật của nguyễn trãi
Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm
Khái quát chung nội dung chính của đoạn trích
- Các đoạn phân tích ( Ý là cần chia các ý trong đoạn thơ mà đề bài cho thành từng đoạn có ý riêng của nó )
Gơi luận điểm
Dẫn chứng
Phân tích dẫn chứng
- Đoạn đánh giá về nội dung
1 Nội dung gì? Diễn tả thành công nội dung gì? Biểu hiện như thế nào?
2 So sánh mở: Cùng nội dung ấy tác phẩm nào, tác giả nào đã đề cập đến
3. Nhưng ở tác phẩm này khác biệt với tác phẩm kia như thế nào
=> từ đó khẳng định tài năng vị thế của tác giả
- Đánh giá về nghệ thuật
+ Thể loại
+ Từ ngữ
+ Giọng điệu
+ Biện pháp tu từ
+ Hình ảnh
- Kết bài:
 
Last edited:

Trần Tuyết Khả

Cựu Mod Văn | Cựu phó CN CLB Địa
Thành viên
13 Tháng hai 2018
2,356
6,278
616
20
Hà Nội
Trường THPT Hoài Đức A
Cô giáo mình có cho ghi định hướng ôn tập kiểm tra giữa học kì II
Cấu trúc có 2 phần chia theo 40% 60%
40 là đọc hiểu còn 60 là làm văn
Về ngữ liệu phần đọc hiểu thì ngoài sgk và bắt buộc thuộc thời kì trung đại và thể loại là phú; ngâm khúc; văn tế hoặc nghị luận trung đại
Những ai đã thi hoặc có tài liệu về phần này như trên thì cho mình xin ạ!
Còn về làm văn thì cô mình nói đề là một câu nghị luận văn học và cụ thể là nghị luận về một đoạn trích trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo.
Mình có viết và có một mong muốn là mọi người có thể nhận xét và góp ý ạ!
Mọi người có thể truy cập vào link drive: https://docs.google.com/document/d/1HuWD7nBYZqwX_a8pA9qWG-YBgJyliwik5XSKDHZy3XU/edit
Hoặc đọc bài dưới đây ạ
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, là vị anh hùng của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Ông không những là một nhà quân sự đại tài mà còn là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Mặc dù cuộc đời ông phải gánh chịu nhiều bất hạnh, trải qua nhiều thăng trầm và chết trong oan khuất nhưng ông vẫn để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ, có giá trị nhiều mặt. Một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn học của ông đó chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
Cuối năm 1427, sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) soạn thảo Đại cáo bình Ngô để tổng kết toàn diện cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, báo cáo cho toàn dân được biết. Bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi ( tức đầu năm 1428 ).
Tác phẩm được viết theo thể Cáo. Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc. Bài đại cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục ( từng cặp câu mỗi câu 10 chữ, ngắt nhịp theo nhịp 4/6), hình tượng nghệ thuật sinh động, gợi cảm.
Đại cáo không chỉ là một bài cáo thông thường mà là một bài cáo có ý nghĩa trọng đại, to lớn để bố cáo tới khắp người dân trên đất nước. Bình là bình định với ý nghĩa dẹp tan giặc dã, là chiến thắng. Ngô là chỉ giặc phương Bắc nói chung và cũng có thể là gọi cả tên tổ của giặc Minh.
Từ đó khẳng định niềm tự hào và sức mạnh dân tộc. Thể hiện sự coi thường, khinh bỉ đối với giặc Minh. Bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa : Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập của dân tộc (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”). Phần 2 là lên tiếng tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc Minh (tiếp theo phần 1 cho đến “Ai bảo thần dân chịu được”). Phần 3 là kể lại diễn biến của cuộc kháng chiến từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với sức mạnh của lòng yêu nước (tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”). Phần còn lại - phần 4 là phần tuyên ngôn chiến thắng, kết thúc chiến tranh và rút ra bài học lịch sử, sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu nguyên lí chính nghĩa. Tiền đề cơ sở lí luận cho cuộc kháng chiến là tư tưởng nhân nghĩa.Tác giả đề cập tới tư tưởng nhân nghĩa cái cốt lõi là yên dân và trừ bạo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Cốt là cốt lõi, là những gì quan trọng nhất và trong tư tưởng nhân nghĩa của tác giả, cái cốt lõi chính là ở yên dân và trừ bạo. Yên dân là bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho nhân dân, tiêu trừ tham tàn và bạo lược. Trừ bạo gắn liền với tư tưởng yêu nước, phải tiêu diệt giặc ngoại xâm. Tư tưởng tiến bộ, lấy dân làm gốc của tác giả đã vạch trần được luận điệu bịp bợm và xảo trá của kẻ thù.
Sau đó, tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc qua những câu thơ:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Ý thức độc lập dân tộc ở Sông núi nước Nam chỉ mới xác định chủ yếu ở hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền. Đến Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm ba yếu tố: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Những yếu tố này đã khắc sâu thêm và khẳng định mạnh mẽ chủ quyền độc lập của dân tộc. Ý thức dân tộc rõ ràng đã được phát triển cao hơn và toàn diện hơn những điều đặc sắc mới mẻ nhất là bên cạnh “ vua “ ( “đế” ) vẫn được tôn trọng như người đại diện cho đất nước , thì yếu tố dân đã xuất hiện trong bản tuyên ngôn độc lập thứ hai này: “dân” đã trở thành đối tượng để bài cáo hướng tới trong việc thực hiện nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Ý thức dân tộc ở Đại Cáo Bình Ngô đã có một bước phát triển cao hơn về chất lượng khi vai trò của người dân đã có mặt trong một văn bản quan trọng của nhà nước phong kiến, khi đó trong con mắt nhìn của tác giả đã có mối liên hệ gắn bó giữa “nước” và “dân”.
Những biểu hiện như : nền văn hiến đã lâu ; lãnh thổ của quốc gia dân tộc : núi, sông, bờ cõi ; phong tục tập quán ; lịch sử của dân tộc, quá khứ của những triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần; đã khẳng định Đại Việt là nước có quyền độc lập tự chủ một cách toàn diện. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh văn hiến và truyền thống lịch sử là yếu tố căn bản, nhấn mạnh văn hiến và lịch sử là cốt lõi để khẳng định về chủ quyền dân tộc.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Đế là vua, là thiên tử. Mỗi bên là một phương, một quyền độc lập. Khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc,các triều đại nước ta dựng nước và giữ nước từ bao ngàn đời nay, tồn tại song hành cùng các triều đại khác của Trung Quốc. Đồng thời thể hiện các triều đại của nước ta sánh ngang hàng với những triều đại của Trung Quốc,không hề kém kém cạnh. Các từ ngữ “ từ trước “, “vốn xưng”, “ đã lâu “, “ đã chia”, “ bao đời “, cho thấy đó những sự thật lịch sử hiển nhiên, là quy luật vốn có. Để khẳng định chủ quyền dân tộc, tồn tại là một điều hiển nhiên, tất yếu dựa trên thực tiễn lịch sử.
Tác phẩm được viết theo thể văn biền ngẫu là cách ngắt nhịp đầy biến hóa, hài hòa, linh động, sáng tạo, phù hợp với mạch cảm xúc. Bên cạnh giọng điệu giọng điệu hùng hồn, đanh thép. Ngôn ngữ giàu tính luận chiến, có độ khái quát cao. Không chỉ thế, thơ ông còn thành công với biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, liệt kê và đặc biệt là sử dụng thành công phép đối. Qua đó, Nguyễn Trãi đã thành công truyền tải nội dung sâu sắc, khẳng định chủ quyền tuyệt đối của dân tộc, nêu bật được tư tưởng nhân nghĩa vì nhân dân, khẳng định nền hòa bình mới giành lại của đất nước.
Bài học lấy dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân đạo, nhân bản cao cả làm nền tảng hành động vẫn là một tiền đề quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Mọi sự phát triển của dân tộc, đất nước đều là sự tiếp thu, phát huy và phát triển các giá trị của quá khứ. Đại Cáo Bình Ngô là bản anh hùng ca vang dội của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, là áng “thiên cổ hùng văn” có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Tác phẩm đánh dấu một bước phát triển tư tưởng của dân tộc Việt Nam trên đường phát triển. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.
Ngoài ra cô giáo có ghi hướng dẫn cách làm như sau đây:
Tài liệu thì chị không còn giữ nên không có để em tham khảo rồi

Bài của em chị có đọc rồi và có ghi nhận xét theo ý kiến của chị, em vào phần nhận xét trong đó coi nha
Bài em sử dụng nhiều dấu ngoặc, dấu hai chấm giống như văn thuyết minh vậy, lời văn vẫn còn thô cứng, nên sử dụng ít các dấu đó lại sẽ ổn hơn đó, những chi tiết không quá cần thiết thì có thể lược bỏ

Theo dàn ý cô cho thì em làm theo rất sát. Nhưng phần mở bài em đã giới thiệu về tác giả rồi nên thân bài mà viết tiếp sẽ thấy lủng củng, lặp lại
Nếu em muốn đưa phần khái quát tác giả xuống thân bài thì phần mở bài có thể dẫn vào bằng cách đưa ra một nhận định về tác phẩm "Bình Ngô Đại Cáo" rồi đi vào giới thiệu tác phẩm -> đoạn trích
 
Top Bottom