S
sonmoc
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
Mỗi dân tộc đều có một lịch sử văn học thống nhất. Nhưng trong lòng mỗi dân tộc luôn có những quan điểm nghiên cứu lịch sử văn học khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, hay thậm chí trong cùng một thời điểm lịch sử nhất định. Vì vậy mà việc xây dựng một bộ lịch sử vǎn học thống nhất nhiều khi tưởng chừng không thể thực hiện nổi.
Nhu cầu viết lịch sử văn học Việt Nam thực chất được đặt ra từ những năm 40 của thế kỷ này. Những bộ lịch sử văn học đầu tiên của Việt Nam được biết đến là Việt Nam học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Đại Việt văn học lịch sử của Nguyễn Sĩ Đạo, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học: Văn học đời Lý và Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố... Đó là những tác phẩm đầu tiên của lớp người "khai sơn phá thạch" cho một ngành khoa học mới mẻ và vô cùng quan trọng: Ngành nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, qua bao biến cố lịch sử, ngành nghiên cứu lịch sử văn học không ngừng phát triển. Các nhà nghiên cứu văn học sử, từ nhiều góc nhìn khác nhau, đã không ngừng đi sâu khám phá lịch sử văn học dân tộc, và xây dựng những bộ lịch sử văn học ngày càng có giá trị khoa học, góp phần nâng cao tri thức cho nhân dân.
Hiện nay tại Việt Nam có tới vài chục cuốn lịch sử văn học. ở đây, chúng tôi không nói tới chất lượng của các cuốn lịch sử văn học đó. Điều đáng bàn là, chúng ta chưa có quan điểm và phương pháp biên soạn lịch sử thống nhất. Sự không thống nhất này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua, là do những tư tưởng khoa học, chính trị, xã hội khác nhau, do bối cảnh lịch sử phức tạp của nước Việt Nam đưa lại. Chúng tôi thấy có bốn quan điểm chính đã tồn tại trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học:
1. Quan điểm lấy ngôn ngữ văn học làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học đã xuất hiện từ rất sớm. Người đầu tiên đề xướng có lẽ là ông Nguyễn Sĩ Đạo, vào năm 1941. Sau đó được hàng loạt các nhà nghiên cứu khác phát triển như Thanh Lãng, Phạm Văn Diêu, Hà Như Chi, Thạch Trung Giả, Phạm Thế Ngũ, Vũ Tiến Phúc... Ở miền nam trước đây; và nhóm nghiên cứu Lê Quý Đôn, ở miền bắc trước đây. Bản Vũ Tiến Phúc đã từng trở thành "Cương lĩnh Việt văn sử" của Bộ Quốc gia giáo dục Sài Gòn cũ.
Quan điểm này tồn tại trên 30 năm, từ 1941 đến 1975. Nhược điểm rõ nhất của quan điểm văn học sử này là, nó chỉ chấp nhận lịch sử văn học là lịch sử của các tác phẩm bằng chữ Việt, tiếng Việt. Nó gạt ra ngoài lịch sử văn học bất kỳ tác phẩm nào nếu không được viết bằng chữ Việt (chữ Nôm trước đây và chữ quốc ngữ ngày nay), dù đó là tác phẩm của người Việt, sáng tác về đất nước Việt, phản ánh tâm hồn, tình cảm, tâm lý, tư tưởng người Việt. Quan điểm này gạt bỏ toàn bộ các tác phẩm chữ Hán của chúng ta ở thời phong kiến ra khỏi lịch sử văn học, gạt bỏ toàn bộ những tác phẩm bằng tiếng nước ngoài của người Việt ở thời cận hiện đại ra khỏi lịch sử văn học. Và đương nhiên, những tác phẩm bằng tiếng Pháp như Truyện ký, Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, những tác phẩm về dân quyền... của Phan Chu Trinh cũng chịu chung số phận. Những tác phẩm bằng tiếng Hán như Ngục trung nhật ký của Nguyễn Ái Quốc, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu cũng chịu hoàn cảnh tương tự...
Lịch sử văn học Việt Nam, theo quan điểm này, thật nghèo nàn và phiến diện. Nó chỉ bắt đầu một cách mơ hồ từ thế kỷ 13 với một vài tác phẩm Nôm không tiêu biểu. Và nhiều nhà văn, nhà thơ được xem xét chỉ ở một vài phương diện, thậm chí rất mờ nhạt của sự nghiệp sáng tác (ví dụ như Cao Bá Quát).
Mặt khác, việc thẩm định giá trị các tác phẩm bằng tiếng Việt này cũng rất hạn chế, chủ yếu vẫn là khai thác mặt nội dung phản ánh, khai thác các giá trị tư tưởng của nó mà thôi.
2. Quan điểm lấy sự phát triển của các khuynh hướng tư tưởng (tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp, tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền...) làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học là quan điểm khá phổ biến từ trước đến nay. Đây cũng là một quan điểm xuất hiện từ rất sớm. Có thể thấy mầm mống của quan điểm này trong các công trình của Dương Quảng Hàm, từ 1941, của Ngô Tất Tố, từ 1942, của Kiều Thanh Quế, năm 1943, và sau này là của Nghiêm Toản, năm 1949... Đặc biệt, quan điểm này được thể hiện trong hầu hết (tuy mức độ đậm nhạt khác nhau) các bộ lịch sử văn học của chúng ta, từ những năm 1955 đến 1975.
Việc đề cao tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng đấu tranh giai cấp, phê phán xã hội cũ... trong văn học là quan điểm đúng là nên làm. Nhưng nếu chúng ta áp dụng một cách máy móc những phạm trù của lịch sử tư tưởng, văn hóa này vào việc nghiên cứu văn học, sẽ không tránh khỏi sự khiên cưỡng.
Quả tình, lịch sử văn học, theo chúng ta hình dung với quan điểm này, đã hiện ra không phải với tính toàn vẹn của nó, mà với tính khuynh hướng của nó. Mà lại chủ yếu là khuynh hướng tư tưởng chứ không phải là khuynh hướng nghệ thuật. Đó là các khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo, khuynh hướng phê phán, tố cáo hiện thực, khuynh hướng thoát ly tiêu cực, khuynh hướng nhập thế tích cực, khuynh hướng văn học phản động, nô dịch, vǎn học phản cách mạng, văn học cách mạng... Cho nên, lịch sử văn học dân tộc nhiều khi được xem đồng nhất với lịch sử của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học.
Quan điểm này không chỉ chi phối việc nghiên cứu lịch sử văn học, nó còn chi phối cả việc biên soạn các bộ hợp tuyển văn học, một "phiên bản" quan trọng của lịch sử văn học. Hợp tuyển văn học không mang tính toàn vẹn và toàn diện của bộ mặt văn học dân tộc, mà là một bộ mặt có tính khuynh hướng. Cho nên, chúng ta thấy chủ yếu xuất hiện các bộ hợp tuyển văn học yêu nước, văn học nhân đạo, văn học phê phán hiện thực...
Quan điểm này cũng chi phối việc biên soạn hệ thống sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, cũng như tuyển chọn những tác phẩm vǎn học "tiêu biểu" trong chương trình học tập ở các cấp phổ thông. Đó là những tác giả tiêu biểu cho cái gì ? Nhất định đó phải là những tác phẩm tiêu biểu cho các tư tưởng, và nhất định đó phải là các tư tưởng yêu nước, nhân đạo, đấu tranh giai cấp, tố cáo, phê phán xã hội... Biểu hiện của quan điểm này là việc ưu tiên tối đa cho một số đề tài và chủ đề văn học nhất định.
Quan điểm này cho rằng, có những khuynh hướng văn học (thực chất là khuynh hướng tư tưởng trong văn học) chạy xuyên suốt, vĩnh cửu trong cả tiến trình lịch sử văn học (khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo...), có những khuynh hướng văn học là sản phẩm của những thời kỳ lịch sử cụ thể (như khuynh hướng phê phán, tố cáo xã hội, khuynh hướng thoát ly, bất mãn với thời cuộc...). Sự thay đổi, phát triển của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học đó chính là sự thay đổi, phát triển của lịch sử vǎn học.
3. Gần đây, người ta chú ý tới một quan điểm viết văn học sử khác, tạm gọi là quan điểm tác gia văn học lớn. Viết văn học sử không phải là viết về tất cả lịch sử văn học, mà viết về những cái mốc lớn của lịch sử văn học, biểu hiện cụ thể ra là những tác gia văn học lớn, tác phẩm văn học lớn. Đây là quan điểm đã quen thuộc trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học ở nhiều nước. Quan điểm này cho rằng, mỗi thời điểm sinh ra cho mình những tác gia văn học lớn tiêu biểu cho nó.
Rõ ràng quan điểm này có những ưu điểm không thể không thấy. Thứ nhất, nó bảo đảm tính toàn diện của lịch sử văn học, thứ hai, nó tỏ thái độ bình đẳng đối với cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học này, người ta đều "quan tâm đúng mức" tới cả nội dung và hình thức của văn học.
Nhưng quan điểm này đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Thứ nhất, những tác gia văn học lớn ấy tiêu biểu cho cái gì ? Câu trả lời là: Tiêu biểu cho cả nội dung và hình thức của văn học. Nhưng thực chất, khi đặt vấn đề như vậy, người ta đã tách rời nội dung khỏi hình thức văn học. Và đương nhiên, cái gọi là sự "quan tâm bình đẳng" tới cả nội dung và hình thức văn học, khi vào thực tế nghiên cứu, sẽ thường là dẫn đến tình trạng bất bình đẳng. Và, như thường thấy trong các bộ lịch sử văn học, người ta sẽ quá thiên lệch, hoặc về nội dung tư tưởng, hoặc về hình thức của tác phẩm văn học. Hơn nữa, trong văn học, cũng như các ngành nghệ thuật khác, không có cái gì gọi là "bình quân vai trò" giữa nội dung và hình thức, thứ hai, không thể có một tiêu chí chặt chẽ cho cái gọi là "tác gia văn học lớn". Và thực tế có những thời kỳ lịch sử rất dài, hầu như không có một tác gia vǎn học lớn nào, hoặc có tác gia văn học lớn nhưng lại không "lớn" bằng ở thời kỳ trước đó. Vậy lịch sử văn học sẽ đứng im, hay thụt lùi ?
4. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới một quan điểm nghiên cứu văn học sử đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua tại nước Việt Nam, tạm gọi là quan điểm thể loại. Quan điểm này cho rằng, lịch sử văn học là lịch sử hình thành và phát triển của các thể loại văn học. Quan điểm này có lẽ bắt đầu xuất hiện trong Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, từ 1942, được tiếp nối qua công trình của hàng loạt các nhà nghiên cứu khác như Bùi Duy Tân, Nguyễn Huệ Chi... Nó được bộc lộ trong các hợp tuyển văn học có tính chuyên biệt về thể loại văn học như các tuyển tập thơ, tuyển tập ca trù, tuyển tập các khúc ngâm, tuyển tập phú, tuyển tập truyện, tuyển tập kịch, tuyển tập văn chính luận... của các tác giả xưa và nay. Nó được đặc biệt chú ý khi người ta giới thiệu những công trình lý luận về thi pháp thể loại của M.Bakhtin ở Việt Nam trong những năm 80.
Mặc dù quan điểm này đã xuất hiện ở nước Việt Nam khá lâu, nhưng nó vẫn là một quan điểm khoa học mới. Bởi vì, thứ nhất, nó cần phải tiếp tục hoàn thiện về mặt lý luận để đối thoại với các quan điểm văn học sử khác đang tồn tại; thứ hai, nó phải xác định được vị trí của nó trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học, một vị trí đầy triển vọng, nhưng hiện chưa được rõ rệt.
Xét cho cùng, thể loại văn học không bao giờ đứng im. Những nhà văn lớn không bao giờ chịu dừng lại ở những hình thức phản ánh đã có. Những tác phẩm có giá trị bao giờ cũng thể hiện những tìm tòi phát hiện mới về nghệ thuật phản ánh.
Thể loại văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không phải theo cách của các yếu tố tư tưởng. Lịch sử văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không vận động theo cách của lịch sử xã hội. Nó bị cái vận động của thể loại quy định chứ không bị sự vận động của lịch sử xã hội quy định. Bởi vì, quy luật vận động của lịch sử văn học, về cơ bản, là xa lạ với quy luật vận động của lịch sử xã hội.
Thể loại văn học bị hiểu nhầm là ổn định, chậm phát triển, ít đột biến... lại là cái vận động và phát triển liên tục, không ngừng không nghỉ, trong bất kỳ không gian và thời gian nào. Nhìn nhận một cách nghiêm túc sẽ không thể tìm thấy sự đứng im nào của thể loại, trong cả tiến trình lịch sử, trong từng thời gian lịch sử, thậm chí trong từng tác gia văn học. Các nhà văn (kể cả thời trung cổ) luôn luôn tồn tại trong tình trạng, một mặt, lặp lại những hình thức nghệ thuật cũ, quen thuộc và mặt khác, luôn luôn sáng tạo, tìm kiếm những hình thức nghệ thuật mới, phá vỡ những hình thức nghệ thuật cũ. Chính những mâu thuẫn, những xung đột này là hạt nhân cho sự phát triển của các phương thức phản ánh nghệ thuật, của việc biểu đạt những tư tưởng nghệ thuật mới trong văn học, và là hạt nhân của sự phát triển lịch sử văn học.
Nghiên cứu lịch sử văn học chính là nghiên cứu lịch sử phát triển của các thể loại văn học. Bởi vì, hệ thống các thể loại văn học không tách rời ngôn ngữ văn học (ngôn ngữ là đơn vị cơ sở tạo nên thể loại, và mỗi loại ngôn ngữ cũng góp phần tạo nên, hoặc lựa chọn thể loại riêng), không tách rời các giai đoạn lịch sử, các vương triều phong kiến, các thời đại lịch sử (mỗi thời đại có những yêu cầu riêng chi phối sự sản sinh hoặc lựa chọn thể loại riêng của mình), không tách rời các nghi thức giao tiếp xã hội (các nghi thức này cũng góp phần tạo ra hoặc lựa chọn thể loại thích hợp), không tách rời các nguyên tắc ứng xử, các thị hiếu và tâm lý thời đại (là những yếu tố góp phần sản sinh hay lựa chọn thể loại); không tách rời khỏi những tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền... (đó là những yếu tố chi phối việc lựa chọn hay sản sinh ra thể loại cho văn học)...
Vì vậy mà vấn đề nghiên cứu lịch sử văn học qua các thể loại vǎn học không phải là vấn đề thuần túy hình thức. Đây cũng chính là những vấn đề của nội dung, được quan tâm có tính song trùng với chính những vấn đề hình thức thể loại.
Quan điểm thể loại trong nghiên cứu lịch sử văn học đã khắc phục được các hạn chế của các quan điểm nghiên cứu khác. Nó bảo đảm được tính toàn vẹn và toàn diện của lịch sử văn học. Lịch sử văn học bao gồm tất cả các thể loại văn học hiện có tại nước Việt Nam. Mỗi thời đại có những thể loại lớn tiêu biểu. Và mỗi thời đại có những nhà văn lớn tiêu biểu cho những thể loại lớn.
Quan điểm thể loại cũng cho thấy, sẽ không có một thể loại nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học, không có một tư tưởng nghệ thuật nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học. Chỉ có tư tưởng nghệ thuật này, với một hình thức nghệ thuật này, của một thời kỳ lịch sử này. Thể loại luôn mang tính lịch sử. Nó chính là tính lịch sử của nền văn học dân tộc. Nó đối lập với các khuynh hướng tư tưởng, triết học, tôn giáo, pháp quyền... trong văn học, vốn có tính "vĩnh cửu" và "xuyên suốt" (một cách tương đối). Bởi vì, khuynh hướng tư tưởng đó chỉ là những phạm trù, chúng không có hình thức của riêng mình. Ví dụ: Tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp... không thể có hình thức văn học riêng thì làm sao có cái gọi là "văn học yêu nước, hay văn học nhân đạo"... với đúng nghĩa của nó ? Nếu xét từ góc nhìn này, thì khuynh hướng tư tưởng trong văn học lại là cái ít biến đổi hơn rất nhiều, vì xem ra, những biến đổi của tư tưởng yêu nước, nhân đạo... đã có cả nghìn năm, quả là không rõ rệt.
Lịch sử văn học là luôn luôn thay đổi, nhưng phải trong chiều hướng phát triển, đi lên. Quan điểm tác gia vǎn học lớn nhiều khi làm cho người ta tưởng chừng như lịch sử vǎn học đang đứng im, hoặc thụt lùi, bởi vì không phải bao giờ giai đoạn văn học sau cũng có được những tác gia văn học lớn tương đương, hoặc lớn hơn giai đoạn văn học trước. Quan điểm thể loại giúp cho người ta thấy rằng lịch sử văn học luôn phát triển, đi lên, ở chỗ những tư tưởng nghệ thuật mới, những phương thức phản ánh nghệ thuật mới luôn luôn tiến bộ hơn, tích cực hơn trong việc phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, tâm lý... của con người, trong quá trình đưa cái phản ánh tiến gần cái được phản ánh. Vì những lẽ đó, chúng ta cần viết văn học sử theo quan điểm thể loại.
Tiến sĩ NGUYỄN PHẠM HÙNG
Mỗi dân tộc đều có một lịch sử văn học thống nhất. Nhưng trong lòng mỗi dân tộc luôn có những quan điểm nghiên cứu lịch sử văn học khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, hay thậm chí trong cùng một thời điểm lịch sử nhất định. Vì vậy mà việc xây dựng một bộ lịch sử vǎn học thống nhất nhiều khi tưởng chừng không thể thực hiện nổi.
Nhu cầu viết lịch sử văn học Việt Nam thực chất được đặt ra từ những năm 40 của thế kỷ này. Những bộ lịch sử văn học đầu tiên của Việt Nam được biết đến là Việt Nam học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Đại Việt văn học lịch sử của Nguyễn Sĩ Đạo, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học: Văn học đời Lý và Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố... Đó là những tác phẩm đầu tiên của lớp người "khai sơn phá thạch" cho một ngành khoa học mới mẻ và vô cùng quan trọng: Ngành nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, qua bao biến cố lịch sử, ngành nghiên cứu lịch sử văn học không ngừng phát triển. Các nhà nghiên cứu văn học sử, từ nhiều góc nhìn khác nhau, đã không ngừng đi sâu khám phá lịch sử văn học dân tộc, và xây dựng những bộ lịch sử văn học ngày càng có giá trị khoa học, góp phần nâng cao tri thức cho nhân dân.
Hiện nay tại Việt Nam có tới vài chục cuốn lịch sử văn học. ở đây, chúng tôi không nói tới chất lượng của các cuốn lịch sử văn học đó. Điều đáng bàn là, chúng ta chưa có quan điểm và phương pháp biên soạn lịch sử thống nhất. Sự không thống nhất này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua, là do những tư tưởng khoa học, chính trị, xã hội khác nhau, do bối cảnh lịch sử phức tạp của nước Việt Nam đưa lại. Chúng tôi thấy có bốn quan điểm chính đã tồn tại trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học:
1. Quan điểm lấy ngôn ngữ văn học làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học đã xuất hiện từ rất sớm. Người đầu tiên đề xướng có lẽ là ông Nguyễn Sĩ Đạo, vào năm 1941. Sau đó được hàng loạt các nhà nghiên cứu khác phát triển như Thanh Lãng, Phạm Văn Diêu, Hà Như Chi, Thạch Trung Giả, Phạm Thế Ngũ, Vũ Tiến Phúc... Ở miền nam trước đây; và nhóm nghiên cứu Lê Quý Đôn, ở miền bắc trước đây. Bản Vũ Tiến Phúc đã từng trở thành "Cương lĩnh Việt văn sử" của Bộ Quốc gia giáo dục Sài Gòn cũ.
Quan điểm này tồn tại trên 30 năm, từ 1941 đến 1975. Nhược điểm rõ nhất của quan điểm văn học sử này là, nó chỉ chấp nhận lịch sử văn học là lịch sử của các tác phẩm bằng chữ Việt, tiếng Việt. Nó gạt ra ngoài lịch sử văn học bất kỳ tác phẩm nào nếu không được viết bằng chữ Việt (chữ Nôm trước đây và chữ quốc ngữ ngày nay), dù đó là tác phẩm của người Việt, sáng tác về đất nước Việt, phản ánh tâm hồn, tình cảm, tâm lý, tư tưởng người Việt. Quan điểm này gạt bỏ toàn bộ các tác phẩm chữ Hán của chúng ta ở thời phong kiến ra khỏi lịch sử văn học, gạt bỏ toàn bộ những tác phẩm bằng tiếng nước ngoài của người Việt ở thời cận hiện đại ra khỏi lịch sử văn học. Và đương nhiên, những tác phẩm bằng tiếng Pháp như Truyện ký, Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, những tác phẩm về dân quyền... của Phan Chu Trinh cũng chịu chung số phận. Những tác phẩm bằng tiếng Hán như Ngục trung nhật ký của Nguyễn Ái Quốc, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu cũng chịu hoàn cảnh tương tự...
Lịch sử văn học Việt Nam, theo quan điểm này, thật nghèo nàn và phiến diện. Nó chỉ bắt đầu một cách mơ hồ từ thế kỷ 13 với một vài tác phẩm Nôm không tiêu biểu. Và nhiều nhà văn, nhà thơ được xem xét chỉ ở một vài phương diện, thậm chí rất mờ nhạt của sự nghiệp sáng tác (ví dụ như Cao Bá Quát).
Mặt khác, việc thẩm định giá trị các tác phẩm bằng tiếng Việt này cũng rất hạn chế, chủ yếu vẫn là khai thác mặt nội dung phản ánh, khai thác các giá trị tư tưởng của nó mà thôi.
2. Quan điểm lấy sự phát triển của các khuynh hướng tư tưởng (tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp, tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền...) làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học là quan điểm khá phổ biến từ trước đến nay. Đây cũng là một quan điểm xuất hiện từ rất sớm. Có thể thấy mầm mống của quan điểm này trong các công trình của Dương Quảng Hàm, từ 1941, của Ngô Tất Tố, từ 1942, của Kiều Thanh Quế, năm 1943, và sau này là của Nghiêm Toản, năm 1949... Đặc biệt, quan điểm này được thể hiện trong hầu hết (tuy mức độ đậm nhạt khác nhau) các bộ lịch sử văn học của chúng ta, từ những năm 1955 đến 1975.
Việc đề cao tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng đấu tranh giai cấp, phê phán xã hội cũ... trong văn học là quan điểm đúng là nên làm. Nhưng nếu chúng ta áp dụng một cách máy móc những phạm trù của lịch sử tư tưởng, văn hóa này vào việc nghiên cứu văn học, sẽ không tránh khỏi sự khiên cưỡng.
Quả tình, lịch sử văn học, theo chúng ta hình dung với quan điểm này, đã hiện ra không phải với tính toàn vẹn của nó, mà với tính khuynh hướng của nó. Mà lại chủ yếu là khuynh hướng tư tưởng chứ không phải là khuynh hướng nghệ thuật. Đó là các khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo, khuynh hướng phê phán, tố cáo hiện thực, khuynh hướng thoát ly tiêu cực, khuynh hướng nhập thế tích cực, khuynh hướng văn học phản động, nô dịch, vǎn học phản cách mạng, văn học cách mạng... Cho nên, lịch sử văn học dân tộc nhiều khi được xem đồng nhất với lịch sử của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học.
Quan điểm này không chỉ chi phối việc nghiên cứu lịch sử văn học, nó còn chi phối cả việc biên soạn các bộ hợp tuyển văn học, một "phiên bản" quan trọng của lịch sử văn học. Hợp tuyển văn học không mang tính toàn vẹn và toàn diện của bộ mặt văn học dân tộc, mà là một bộ mặt có tính khuynh hướng. Cho nên, chúng ta thấy chủ yếu xuất hiện các bộ hợp tuyển văn học yêu nước, văn học nhân đạo, văn học phê phán hiện thực...
Quan điểm này cũng chi phối việc biên soạn hệ thống sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, cũng như tuyển chọn những tác phẩm vǎn học "tiêu biểu" trong chương trình học tập ở các cấp phổ thông. Đó là những tác giả tiêu biểu cho cái gì ? Nhất định đó phải là những tác phẩm tiêu biểu cho các tư tưởng, và nhất định đó phải là các tư tưởng yêu nước, nhân đạo, đấu tranh giai cấp, tố cáo, phê phán xã hội... Biểu hiện của quan điểm này là việc ưu tiên tối đa cho một số đề tài và chủ đề văn học nhất định.
Quan điểm này cho rằng, có những khuynh hướng văn học (thực chất là khuynh hướng tư tưởng trong văn học) chạy xuyên suốt, vĩnh cửu trong cả tiến trình lịch sử văn học (khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo...), có những khuynh hướng văn học là sản phẩm của những thời kỳ lịch sử cụ thể (như khuynh hướng phê phán, tố cáo xã hội, khuynh hướng thoát ly, bất mãn với thời cuộc...). Sự thay đổi, phát triển của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học đó chính là sự thay đổi, phát triển của lịch sử vǎn học.
3. Gần đây, người ta chú ý tới một quan điểm viết văn học sử khác, tạm gọi là quan điểm tác gia văn học lớn. Viết văn học sử không phải là viết về tất cả lịch sử văn học, mà viết về những cái mốc lớn của lịch sử văn học, biểu hiện cụ thể ra là những tác gia văn học lớn, tác phẩm văn học lớn. Đây là quan điểm đã quen thuộc trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học ở nhiều nước. Quan điểm này cho rằng, mỗi thời điểm sinh ra cho mình những tác gia văn học lớn tiêu biểu cho nó.
Rõ ràng quan điểm này có những ưu điểm không thể không thấy. Thứ nhất, nó bảo đảm tính toàn diện của lịch sử văn học, thứ hai, nó tỏ thái độ bình đẳng đối với cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học này, người ta đều "quan tâm đúng mức" tới cả nội dung và hình thức của văn học.
Nhưng quan điểm này đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Thứ nhất, những tác gia văn học lớn ấy tiêu biểu cho cái gì ? Câu trả lời là: Tiêu biểu cho cả nội dung và hình thức của văn học. Nhưng thực chất, khi đặt vấn đề như vậy, người ta đã tách rời nội dung khỏi hình thức văn học. Và đương nhiên, cái gọi là sự "quan tâm bình đẳng" tới cả nội dung và hình thức văn học, khi vào thực tế nghiên cứu, sẽ thường là dẫn đến tình trạng bất bình đẳng. Và, như thường thấy trong các bộ lịch sử văn học, người ta sẽ quá thiên lệch, hoặc về nội dung tư tưởng, hoặc về hình thức của tác phẩm văn học. Hơn nữa, trong văn học, cũng như các ngành nghệ thuật khác, không có cái gì gọi là "bình quân vai trò" giữa nội dung và hình thức, thứ hai, không thể có một tiêu chí chặt chẽ cho cái gọi là "tác gia văn học lớn". Và thực tế có những thời kỳ lịch sử rất dài, hầu như không có một tác gia vǎn học lớn nào, hoặc có tác gia văn học lớn nhưng lại không "lớn" bằng ở thời kỳ trước đó. Vậy lịch sử văn học sẽ đứng im, hay thụt lùi ?
4. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới một quan điểm nghiên cứu văn học sử đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua tại nước Việt Nam, tạm gọi là quan điểm thể loại. Quan điểm này cho rằng, lịch sử văn học là lịch sử hình thành và phát triển của các thể loại văn học. Quan điểm này có lẽ bắt đầu xuất hiện trong Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, từ 1942, được tiếp nối qua công trình của hàng loạt các nhà nghiên cứu khác như Bùi Duy Tân, Nguyễn Huệ Chi... Nó được bộc lộ trong các hợp tuyển văn học có tính chuyên biệt về thể loại văn học như các tuyển tập thơ, tuyển tập ca trù, tuyển tập các khúc ngâm, tuyển tập phú, tuyển tập truyện, tuyển tập kịch, tuyển tập văn chính luận... của các tác giả xưa và nay. Nó được đặc biệt chú ý khi người ta giới thiệu những công trình lý luận về thi pháp thể loại của M.Bakhtin ở Việt Nam trong những năm 80.
Mặc dù quan điểm này đã xuất hiện ở nước Việt Nam khá lâu, nhưng nó vẫn là một quan điểm khoa học mới. Bởi vì, thứ nhất, nó cần phải tiếp tục hoàn thiện về mặt lý luận để đối thoại với các quan điểm văn học sử khác đang tồn tại; thứ hai, nó phải xác định được vị trí của nó trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học, một vị trí đầy triển vọng, nhưng hiện chưa được rõ rệt.
Xét cho cùng, thể loại văn học không bao giờ đứng im. Những nhà văn lớn không bao giờ chịu dừng lại ở những hình thức phản ánh đã có. Những tác phẩm có giá trị bao giờ cũng thể hiện những tìm tòi phát hiện mới về nghệ thuật phản ánh.
Thể loại văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không phải theo cách của các yếu tố tư tưởng. Lịch sử văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không vận động theo cách của lịch sử xã hội. Nó bị cái vận động của thể loại quy định chứ không bị sự vận động của lịch sử xã hội quy định. Bởi vì, quy luật vận động của lịch sử văn học, về cơ bản, là xa lạ với quy luật vận động của lịch sử xã hội.
Thể loại văn học bị hiểu nhầm là ổn định, chậm phát triển, ít đột biến... lại là cái vận động và phát triển liên tục, không ngừng không nghỉ, trong bất kỳ không gian và thời gian nào. Nhìn nhận một cách nghiêm túc sẽ không thể tìm thấy sự đứng im nào của thể loại, trong cả tiến trình lịch sử, trong từng thời gian lịch sử, thậm chí trong từng tác gia văn học. Các nhà văn (kể cả thời trung cổ) luôn luôn tồn tại trong tình trạng, một mặt, lặp lại những hình thức nghệ thuật cũ, quen thuộc và mặt khác, luôn luôn sáng tạo, tìm kiếm những hình thức nghệ thuật mới, phá vỡ những hình thức nghệ thuật cũ. Chính những mâu thuẫn, những xung đột này là hạt nhân cho sự phát triển của các phương thức phản ánh nghệ thuật, của việc biểu đạt những tư tưởng nghệ thuật mới trong văn học, và là hạt nhân của sự phát triển lịch sử văn học.
Nghiên cứu lịch sử văn học chính là nghiên cứu lịch sử phát triển của các thể loại văn học. Bởi vì, hệ thống các thể loại văn học không tách rời ngôn ngữ văn học (ngôn ngữ là đơn vị cơ sở tạo nên thể loại, và mỗi loại ngôn ngữ cũng góp phần tạo nên, hoặc lựa chọn thể loại riêng), không tách rời các giai đoạn lịch sử, các vương triều phong kiến, các thời đại lịch sử (mỗi thời đại có những yêu cầu riêng chi phối sự sản sinh hoặc lựa chọn thể loại riêng của mình), không tách rời các nghi thức giao tiếp xã hội (các nghi thức này cũng góp phần tạo ra hoặc lựa chọn thể loại thích hợp), không tách rời các nguyên tắc ứng xử, các thị hiếu và tâm lý thời đại (là những yếu tố góp phần sản sinh hay lựa chọn thể loại); không tách rời khỏi những tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền... (đó là những yếu tố chi phối việc lựa chọn hay sản sinh ra thể loại cho văn học)...
Vì vậy mà vấn đề nghiên cứu lịch sử văn học qua các thể loại vǎn học không phải là vấn đề thuần túy hình thức. Đây cũng chính là những vấn đề của nội dung, được quan tâm có tính song trùng với chính những vấn đề hình thức thể loại.
Quan điểm thể loại trong nghiên cứu lịch sử văn học đã khắc phục được các hạn chế của các quan điểm nghiên cứu khác. Nó bảo đảm được tính toàn vẹn và toàn diện của lịch sử văn học. Lịch sử văn học bao gồm tất cả các thể loại văn học hiện có tại nước Việt Nam. Mỗi thời đại có những thể loại lớn tiêu biểu. Và mỗi thời đại có những nhà văn lớn tiêu biểu cho những thể loại lớn.
Quan điểm thể loại cũng cho thấy, sẽ không có một thể loại nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học, không có một tư tưởng nghệ thuật nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học. Chỉ có tư tưởng nghệ thuật này, với một hình thức nghệ thuật này, của một thời kỳ lịch sử này. Thể loại luôn mang tính lịch sử. Nó chính là tính lịch sử của nền văn học dân tộc. Nó đối lập với các khuynh hướng tư tưởng, triết học, tôn giáo, pháp quyền... trong văn học, vốn có tính "vĩnh cửu" và "xuyên suốt" (một cách tương đối). Bởi vì, khuynh hướng tư tưởng đó chỉ là những phạm trù, chúng không có hình thức của riêng mình. Ví dụ: Tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp... không thể có hình thức văn học riêng thì làm sao có cái gọi là "văn học yêu nước, hay văn học nhân đạo"... với đúng nghĩa của nó ? Nếu xét từ góc nhìn này, thì khuynh hướng tư tưởng trong văn học lại là cái ít biến đổi hơn rất nhiều, vì xem ra, những biến đổi của tư tưởng yêu nước, nhân đạo... đã có cả nghìn năm, quả là không rõ rệt.
Lịch sử văn học là luôn luôn thay đổi, nhưng phải trong chiều hướng phát triển, đi lên. Quan điểm tác gia vǎn học lớn nhiều khi làm cho người ta tưởng chừng như lịch sử vǎn học đang đứng im, hoặc thụt lùi, bởi vì không phải bao giờ giai đoạn văn học sau cũng có được những tác gia văn học lớn tương đương, hoặc lớn hơn giai đoạn văn học trước. Quan điểm thể loại giúp cho người ta thấy rằng lịch sử văn học luôn phát triển, đi lên, ở chỗ những tư tưởng nghệ thuật mới, những phương thức phản ánh nghệ thuật mới luôn luôn tiến bộ hơn, tích cực hơn trong việc phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, tâm lý... của con người, trong quá trình đưa cái phản ánh tiến gần cái được phản ánh. Vì những lẽ đó, chúng ta cần viết văn học sử theo quan điểm thể loại.
Tiến sĩ NGUYỄN PHẠM HÙNG