nhớ rừng

H

hellangel98

Ngay từ đầu khi mới xuất hiện trên thi đàn văn học, phong trào Thơ Mơi đã đánh dấu cho sự đổi thay lớn lao của nền thi ca dân tộc. Để có được những sự thay đổi lớn lao ấy , đó là sự đóng góp miệt mài và say mê của hàng loạt cây bút với hồn thơ lãng mạn và giàu cảm xúc. Một trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng. Ở trong Nhớ Rừng , Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Trong những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ Mới đã có những sự phát triển trong cả phong cách và nội dung. Trên các chặng đường phát triển, Thơ Mới đã dần giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những giác quan, những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ. Ở đó là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ Mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.
Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh đuợc nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng những u uất ngao ngán trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn bách thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực tại và dĩ vãng.

Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ. : mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.
Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng .
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã lan toả một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tuởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.
 
U

uocmovahoaibao

Thế Lữ(1907-1989), bút hiệu này là lấy từ tên thật Thứ Lễ nói trại lại, ẩn ý chỉ là “Quán trọ thế nhân”. Ông viết bài thơ theo cảm xúc về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Tường Tam, ...thật mãnh liệt to lớn đầy hoài bão, nhưng không bắt nắm được cơ hội hay thời cơ, để rồi trở thành con hổ bị nhốt vào chuồng thú “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.”


Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thái độ của con hổ bị giam là một sự tha hóa lãng mạn cho chính nó, khi bốn bức tường vây nhục nhã, không thoát, chỉ còn một chỗ nương ẩn là nhớ về một thuở “hồng hoang”, nơi đó ẩn hiện vóc dáng “hùm thiêng” cái thời mà:



Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng…/ nhưng: ...Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi”, sao mà cô đơn lạnh lùng, khi mà quyền uy đạt đến điểm cao nhất, Thì chính nó trở thành “Đỉnh gió hú”, chỉ còn lại mình ta “không tên không tuổi”, đã làm cho vạn vật bị tan biến…Thì chính lúc ta quay về với chốn trơ vơ cùng tận.


Cùng thời, Xuân Diệu cũng có những vần thơ lưu đậm dấu vết như trong bài thơ “Hi Mã Lạp Sơn", chỉ ra cái bi kịch, khi tưởng mình trên đỉnh cao, thì chính là lúc ta “rơi ngoài”, hiện tượng này ai trải qua đều thấy:




Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta
…
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!
(XD)

Cái thi vị ẩn dụ nằm trong “thơ mới” là để chỉ ra cái tính bó rọ của “thơ cổ” , như đời người của một thời đoạn trong đó sự tác động tính người chỉ là sự “có đến thì phải có đi”, cố níu kéo thì nó bị vây hãm như con hổ kia, rồi sẽ bị nhận chìm..., quan trọng ở đó nếu không biết nắm bắt sẽ không tồn tại, như thơ mới/thơ cũ tranh luận…, của nền thi ca Việt trước 1945, có những cằn cựa làm nền cho sáng tạo tiến bộ qua những thời kỳ hạn định, mà con người tác động như một lữ khách trong cuộc hành trình trường kỳ “không thủy không chung!?” nhưng nối liền, trong một tiến trình phóng tới, không có thắng bại mà sự kế thừa của giai đoạn dồn nén năng lực của cái trước đẩy ùa cho cái sau:



Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Sự biến động liên hồi của thế quang, con hổ của Thế Lữ nhớ lại giang sơn xưa như một hoài niệm và đâu đây vang vọng của “một thời vang bóng” đã phủ trùm màn đêm “ Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” rồi đây theo luật tuần hoàn di dịch cũng phải đi qua!….


Dùng một con vật hoang dã để nói về cuộc đời của con người là điều không hề dễ dàng gì. Trong cái bối cảnh xã hội đầy biến đổi, chỉ có những nghệ sĩ là có những cảm nhận tinh tế bậc nhất, mà chúng được thể hiện đầy đủ trong thơ văn, ca từ. Thế Lữ đã tạo một cảm giác bất ngờ, khi đọc lên những vần thơ "Nhớ Rừng", mà trong đó, chú cọp ngông nghênh đang bị nhốt ...


Rõ ràng là lời của một chú hổ được nhân hóa kể lại :


Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Trong cổ chú có một "cục" - rất to lớn - cục tức trong họng. Cái cục tức đó trấn áp cả cái tâm của chú hổ. Để rồi chú nằm dài, chẳng biết làm việc gì để "nhìn thời gian trôi". Một kẻ tù đày lại còn tâm trạng để "khinh rẻ" lũ người "ngạo mạn" ? Chú hổ cảm thấy mình rất vĩ đại, không bao giờ chịu ngang hàng với "bọn gấu, bọn báo" trong khi bị tù hãm. Trong thế giới con người, chúng đều là những loài vật rừng, không hề có sự so sánh khác biệt đến thế. Nhưng ta không biết được, từ sâu thẳm lòng, chúng đã biết mình là một phần không thể không có của vũ trụ.


Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
-- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Chú nhớ, nhớ đến tất cả những gì chú thống trị, là cả một giang sơn rộng lớn. Tất cả đều là những biểu tượng của một vị chú tể muôn loài. Tù đày, biết làm chi đây ? Lúc trước tự do, ta đây có thể làm tất cả những điều mình thích, bất kì kẻ nào cũng phải phục tùng. Một chút tinh tế pha vào lời văn : "uống trăng tan". Quả thực, ảnh trăng vàng chiếu bóng xuống nước, đến nỗi chú hổ "lỡ" uống vào. Không hiểu đó là sự chinh phục to tát, hay là sự ngây ngô của chú hổ chúa tể ? Một lời than ai oán, "thời oanh liệt nay còn đâu". Rõ ràng là chú còn rất nhiều hoài bão cần thực hiện, nhưng chỉ một gian tù đã làm chú khổ sở mọi bề ...


Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,

Sống những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
-- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Trong lòng của chú, một nỗi niềm nữa lại cất lên. Đó là lời mơ mộng của một chú cọp, hay đúng hơn là một vị chúa tể. Chú cất tiếng gọi giang sơn của mình, nhưng chú biết những điều mà chú tơ tưởng sẽ không bao giờ hiện thực hóa được. Chỉ còn cách tự bản thân cảm nhận được cái hồn của giang sơn, để tự mình cai quản. Để ấp ủ bao ước vọng ...


Một con người thực thụ, phải chăng ? Dù trong cảnh tù đày, nhưng hãy biết hi sinh và làm gì đó trong khoảng thời gian này, để cuộc sống thêm ý nghĩa, không nhạt màu đi.

_____________
Chúc bạn học tốt!
Nguồn: net
 
Q

quyennambgbg123

Thế Lữ(1907-1989), bút hiệu này là lấy từ tên thật Thứ Lễ nói trại lại, ẩn ý chỉ là “Quán trọ thế nhân”. Ông viết bài thơ theo cảm xúc về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Tường Tam, ...thật mãnh liệt to lớn đầy hoài bão, nhưng không bắt nắm được cơ hội hay thời cơ, để rồi trở thành con hổ bị nhốt vào chuồng thú “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.”


Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thái độ của con hổ bị giam là một sự tha hóa lãng mạn cho chính nó, khi bốn bức tường vây nhục nhã, không thoát, chỉ còn một chỗ nương ẩn là nhớ về một thuở “hồng hoang”, nơi đó ẩn hiện vóc dáng “hùm thiêng” cái thời mà:


Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng…/ nhưng: ...Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi”, sao mà cô đơn lạnh lùng, khi mà quyền uy đạt đến điểm cao nhất, Thì chính nó trở thành “Đỉnh gió hú”, chỉ còn lại mình ta “không tên không tuổi”, đã làm cho vạn vật bị tan biến…Thì chính lúc ta quay về với chốn trơ vơ cùng tận.

Cùng thời, Xuân Diệu cũng có những vần thơ lưu đậm dấu vết như trong bài thơ “Hi Mã Lạp Sơn", chỉ ra cái bi kịch, khi tưởng mình trên đỉnh cao, thì chính là lúc ta “rơi ngoài”, hiện tượng này ai trải qua đều thấy:



Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
…
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!
(XD)

Cái thi vị ẩn dụ nằm trong “thơ mới” là để chỉ ra cái tính bó rọ của “thơ cổ” , như đời người của một thời đoạn trong đó sự tác động tính người chỉ là sự “có đến thì phải có đi”, cố níu kéo thì nó bị vây hãm như con hổ kia, rồi sẽ bị nhận chìm..., quan trọng ở đó nếu không biết nắm bắt sẽ không tồn tại, như thơ mới/thơ cũ tranh luận…, của nền thi ca Việt trước 1945, có những cằn cựa làm nền cho sáng tạo tiến bộ qua những thời kỳ hạn định, mà con người tác động như một lữ khách trong cuộc hành trình trường kỳ “không thủy không chung!?” nhưng nối liền, trong một tiến trình phóng tới, không có thắng bại mà sự kế thừa của giai đoạn dồn nén năng lực của cái trước đẩy ùa cho cái sau:


Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Sự biến động liên hồi của thế quang, con hổ của Thế Lữ nhớ lại giang sơn xưa như một hoài niệm và đâu đây vang vọng của “một thời vang bóng” đã phủ trùm màn đêm “ Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” rồi đây theo luật tuần hoàn di dịch cũng phải đi qua!….

Dùng một con vật hoang dã để nói về cuộc đời của con người là điều không hề dễ dàng gì. Trong cái bối cảnh xã hội đầy biến đổi, chỉ có những nghệ sĩ là có những cảm nhận tinh tế bậc nhất, mà chúng được thể hiện đầy đủ trong thơ văn, ca từ. Thế Lữ đã tạo một cảm giác bất ngờ, khi đọc lên những vần thơ "Nhớ Rừng", mà trong đó, chú cọp ngông nghênh đang bị nhốt ...

Rõ ràng là lời của một chú hổ được nhân hóa kể lại :

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Trong cổ chú có một "cục" - rất to lớn - cục tức trong họng. Cái cục tức đó trấn áp cả cái tâm của chú hổ. Để rồi chú nằm dài, chẳng biết làm việc gì để "nhìn thời gian trôi". Một kẻ tù đày lại còn tâm trạng để "khinh rẻ" lũ người "ngạo mạn" ? Chú hổ cảm thấy mình rất vĩ đại, không bao giờ chịu ngang hàng với "bọn gấu, bọn báo" trong khi bị tù hãm. Trong thế giới con người, chúng đều là những loài vật rừng, không hề có sự so sánh khác biệt đến thế. Nhưng ta không biết được, từ sâu thẳm lòng, chúng đã biết mình là một phần không thể không có của vũ trụ.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
-- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Chú nhớ, nhớ đến tất cả những gì chú thống trị, là cả một giang sơn rộng lớn. Tất cả đều là những biểu tượng của một vị chú tể muôn loài. Tù đày, biết làm chi đây ? Lúc trước tự do, ta đây có thể làm tất cả những điều mình thích, bất kì kẻ nào cũng phải phục tùng. Một chút tinh tế pha vào lời văn : "uống trăng tan". Quả thực, ảnh trăng vàng chiếu bóng xuống nước, đến nỗi chú hổ "lỡ" uống vào. Không hiểu đó là sự chinh phục to tát, hay là sự ngây ngô của chú hổ chúa tể ? Một lời than ai oán, "thời oanh liệt nay còn đâu". Rõ ràng là chú còn rất nhiều hoài bão cần thực hiện, nhưng chỉ một gian tù đã làm chú khổ sở mọi bề ...

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Sống những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
-- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Trong lòng của chú, một nỗi niềm nữa lại cất lên. Đó là lời mơ mộng của một chú cọp, hay đúng hơn là một vị chúa tể. Chú cất tiếng gọi giang sơn của mình, nhưng chú biết những điều mà chú tơ tưởng sẽ không bao giờ hiện thực hóa được. Chỉ còn cách tự bản thân cảm nhận được cái hồn của giang sơn, để tự mình cai quản. Để ấp ủ bao ước vọng ...

Một con người thực thụ, phải chăng ? Dù trong cảnh tù đày, nhưng hãy biết hi sinh và làm gì đó trong khoảng thời gian này, để cuộc sống thêm ý nghĩa, không nhạt màu đi.
_____________
 
L

love_xinh

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...
Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lý vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đã nhận định như vậy...

Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đã tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn hình vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lãng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hãm mình trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam mình trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của thơ mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đã ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... thì giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nhìn thấy hồn thơ cũ vẫn còn âm vang trong thơ mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lãng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dõng dạc, cuộn, quắc...":

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mãnh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có gì để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mã Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng hình ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam mình? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ còn trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó gò bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho thơ mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài dòng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất định không thể là thế mạnh của thơ mới, mà nó đã vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của thơ mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn còn rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã mở ra triển vọng cho thơ mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?
 
L

love_xinh

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...
Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lý vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đã nhận định như vậy...

Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đã tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn hình vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lãng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hãm mình trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam mình trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của thơ mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đã ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... thì giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nhìn thấy hồn thơ cũ vẫn còn âm vang trong thơ mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lãng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dõng dạc, cuộn, quắc...":

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mãnh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có gì để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mã Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng hình ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam mình? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ còn trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó gò bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho thơ mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài dòng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất định không thể là thế mạnh của thơ mới, mà nó đã vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của thơ mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn còn rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã mở ra triển vọng cho thơ mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?
 
Top Bottom