Nhận xét về bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, có ý kiến cho rằng: “Bài

A

angela_ruby_moon

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật – gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng âm từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say mê bằng chính sự tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung và đậm chất người lính. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó, đã đạt giải nhất báo văn nghệ năm 1969. Tác phẩm được viết năm 1969 để ghi lại ý nghĩa, tình cảm, cảm xúc của các chiến sĩ lái xe hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn ngày đêm đưa người, vũ khí và lương thực chi viện cho miền Nam. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn…
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe không kính và người lính lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên, mộc mạc.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
Tác giả lí giải một cách thật đơn giản mà ngộ nghĩnh, tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với hình ảnh “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung được sự tàn phá dữ dội của bom đạn trên nẻo đường Trường Sơn lúc bấy giờ. Nhưng tuy thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu song đó lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn dày đặc của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản, tự tin, ung dung và lạc quan đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn và đón nhận thiên nhiên. Với nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng, bài thơ đã mở đầu cho ta hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận bằng thái độ tự tin, ung dung, lạc quan của những người lính lái xe. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả một cách chân thực và chính xác đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Không có kính để bảo vệ, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm: “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim”, “sao trời” và “cách chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa vào buồng lái của các chiến sĩ trẻ. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm tay lái trên chiếc xe không kính nên câu từ mới thật sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh và gợi cảm giác chân thực đến thế.
Tuy trên đường đi phải vượt qua bao thử thách, bao nỗi căng thẳng nhưng người chiến sĩ không hề run sợ, hoảng hốt, trái lại, các anh vẫn đi rất hiên ngang, tinh thần vẫn vững vàng. Bầu không khí căng thảng với “bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của con người coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ chậm rãi như diễn tả thái độ thản nhiên, đàng hoàng của những người lính lái xe. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên chiến trường thành niềm vui thích mà chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế ấy.
Hai khổ thơ đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm với lòng quyết tâm gan góc trở hàng ra tiền tuyến. Tuy những chiếc xe chở hàng còn thiếu thốn và mất mát nhiều thứ nhưng đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường mặc cho gặp nhiều nguy hiểm, nhiều mưa nắng, gió bụi của thời tiết:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun, mưa xối như ngoài trời”
Trên con đường chi viện cho miền Nam, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ nhưng đứng trước những thử thách mới, các anh cũng không hề nao núng mà càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. Thời tiết “mưa tuôn”, “mưa xối” khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ, tất cả chỉ là chuyện nhỏ, chẳng đáng bận tâm, chúng như đem lại niềm vui đến cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một sự thách thức, một sự chấp nhận đầy chủ động với thái độ cứng cỏi, dường như gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ.
Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Cấu trúc các câu thơ vẫn rất cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” gợi một cảm giác nhẹ nhàng, ung dung, lạc quan và thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi thanh niên hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” với ý thơ rộn rã, sôi động như sự hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Giọng điệu thơ tự nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch như họ đang cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn đã giúp những người lính đưa hiện thực đời sống vào thơ ca một hiện thực bộn bề, thô ráp, trần trụi mà không hề trau chuốt, gọt dũa. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy cũng làm nổi bật lên tính cách ngang tàn của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời. Đó cũng chính là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Nụ cười hiện trên môi của các anh là một nụ cười sảng khoái, vô tư, hồn nhiên và ngạo nghễ thể hiện các anh là những người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
Sau mỗi trận mưa bom bão đạn ấy thì những chiếc xe ngày càng bị tàn phá nặng nề hơn, họ gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội” – tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên, tinh nghịch. Đó chính là nét đẹp về tâm hồn và tình cảm của các anh, là tình catm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời.
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía, cái bắt tay thay cho lời nói, lời động viên, lời chia sẻ của những người lính với nhau. Chỉ có những người lính, những chiếc xe bị tàn phá khốc liệt thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy – một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn to lớn của một thời đại hào hùng.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Tình cảm gia đình của những người lính thật bình dị mà ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” để đi tới thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn các anh, trời xanh như chứa chan hy vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quan của “tiểu đội xe không kính” mà không một sức mạnh bom đạn nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống của các anh không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
Nếu như ở các câu thơ đầu tiên của bài, ta chỉ bắt gặp hình ảnh những chiếc xe không có kính thôi thì đến khổ thơ cuối này, ta thấy được hình ảnh những chiếc xe ngày càng bị hư hỏng, thiếu thốn và mất mát nhiều hơn.
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Tuy chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kỹ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: “không kính”, “không đèn”, “không mui”, chỉ có một thứ duy nhất là “có xước” nhưng cũng vẫn là một tổn thất, hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên thử thách khốc liệt của chiến tranh. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù, mang trên mình đầy thương tích nhưng chiếc xe vẫn như một chiến sĩ kiên cường mà bất khuất.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phí trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến lên phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một mục đích thiêng liêng “vì miền Nam phía trước”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước vẫn đang vẫy gọi, bởi vì trong những chiếc xe đó chứa đựng “một trái tim” dũng cảm và kiên cường. Hình ảnh “trái tim” là hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp và phẩm chất của những người chiến sĩ lái xe. Trái tim nông cháy chứa đựng một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm và niềm tin tuyệt đối. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất đất nước. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm chất anh hùng, khí thế của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chứa chan tình yêu thương này. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật những cái “có” và làm nổi bật một chân lý của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, hủy hoại giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp. Chính vì vậy mà tuy Việt Nam là một nước nhỏ nhưng lại chiến thắng được cường quốc lớn như Đế quốc Mĩ.
Bằng việc sử dụng điệp ngữ “không có” và các từ ngữ tương ứng đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên, ngang tàn của những người lính trẻ nhưng ẩn sâu trong từng câu nói là một tinh thần trách nhiệm cao và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng, son sắt. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của kẻ thù có thể lay chuyển được.
Đến với bài thơ, ta thú vị nhận ra cái chất hiện thwucj và chất lãng mạn được hòa quyện với nhau một cách tinh tế mà sâu sắc. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo, bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong bài thơ đã góp phần tạp nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả. Cái “cửa kính vỡ rồi”, cái “xe không kính” đậm chất hiện thực nhưng vẫn lao lên phía trước, lao ra tiền tuyến để tiếp tế súng đạn, lương thực vì ngày toàn thắng của đất nước. Hình ảnh tiểu đội xe không kính trở thành biểu tượng lãng mạn tuyệt vời cho những người lính lái xe trên đường mòn Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn hướng tới miền Nam thân yêu.
 
H

huyvip9x1999

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu n¬ước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt .Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người ,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng.
Trên những chiếc xe không kính ,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong tư thế ung dung ,trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh ,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái .
Xe không kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành :
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già .
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời .
Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh .Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi.Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .
Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay :
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung ,sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái .
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ,rất lính.Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả .
 
T

thonglieubao

- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Năm 1964, ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Tháng 8-1964, ông vào bộ đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ




- Với quan niệm “ chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống” , Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

- Tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa ( 1970 ); Thơ một chặng đường ( 1971); Ở hai đầu núi ( 1981 ); Nhóm lửa ( 1996 )



2.Tác phẩm

- Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970. Chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “ Vầng trăng quầng lửa” ( 1970 ) của tác giả.

- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo - những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.



II.Phân tích bài thơ

1.Nét độc đáo trong nhan đề bài thơ

Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ và độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.



2.Hình ảnh những chiếc xe không kính

Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vấn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực ( chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.



3.Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ

- Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.

- Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng cảm giác của người chiến sĩ lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài :

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đườg chạy thẳng vào tim

Câu thơ đã diễn tả được cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh. Qua khung cửa đã không còn kính chắn gió, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Nhà thơ đã diễn tả chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính.

- Người lái xe hiện ra với những nét tính cách thật cao đẹp

+Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

+Thái độ bất chấp khó khăn gian khổ nguy hiểm. Tình cảm của người chiến sĩ lái xe trên những chiếc xe không kính được miêu tả thật chân thực: bụi phun tóc trắng, mặt lấm, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời. Nhưng người chiến sĩ chấp nhận thử thách như một tất yếu: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Với tinh thần chấp nhận thử thách, họ hết sức bình thản: chưa cần rửa, chưa cần thay. Cái cách phì phèo châm điếu thuốc và nhìn nhau mặt lấm cười ha ha thì sự bình thản đã đạt đến mức vô tư lự một cách thật trẻ trung! Cái thái độ phớt tỉnh…lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ, lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Khi viết bài này nhà thơ chưa đến độ tuổi ba mươi ấy đã thực sự khơi một nguồn cảm xúc trẻ trung, tinh nghịch cho thơ cách mạng, kháng chiến

Không có kính ừ thì có bụi

…Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Không có kính ừ thì ướt áo

…Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

+Những người lính lái xe còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan: Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi gợi lên cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Những người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè, và cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Họ có thể chào nhau, bắt tay nhau mà không có gì phải hổ thẹn, ngại ngùng. Câu thơ: Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới cũng đầy ý tứ sâu xa: những người gặp nhau trên đường đi tới giải phóng miền Nam mới thực sự là bạn bè. Và mặt khác, con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bè bạn.

“ Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

“ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy”

- Cái gì đã làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ, bất chấp nguy nan như vậy? Đó chính là ý chí giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ ( Chỉ cần trong xe có một trái tim )



4.Giọng điệu và ngôn ngữ của bài thơ

- Giọng thơ ngang tàng, có cả chất ngịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả ( nhữngchàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính ). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ ( Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm…)

- Thể thơ: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điẹu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.

Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép
 
T

thonglieubao

Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai"(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu đội không kính" (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả "anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp" của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về "những chiếc xe không kính" thật đơn giản, tự nhiên :

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật.

Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.

Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh.

Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ :

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.

Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.

Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy.

Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

"Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc :

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước ...

Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền Nam", vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh "trong xe có một trái tim" .

Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt của thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :

Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung

Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 - 1975.
 
Last edited by a moderator:
T

thonglieubao

Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước đầy cam go và oanh liệt cúa nhân dân đã kết thúc thắng lợi. Trong “mưa bom bão đạn” trên tuyến đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. Một trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh nhửng đoàn xe không có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc. Xúc động trước hiện thực lớn lao đó cũa đồng đội. Phạm Tiến Duật đã sáng tác “bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài ca người lính độc đáo này, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và đất nước :
.
. “……. Những chiếc xe từ trong bom rơi
. …………….
. Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
.
. Tìm hiểu bài thơ và đặc biệt ba đoạn thơ trên ta sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước.
. Mở đầu bài thơ tác giả viết :
.
. “ Những chiếc xe từ trong bom rơi
. Đã về đây họp thành tiểu đội
. Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
. Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
. “
. Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Hình như, chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẽ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng.
. Đoàn xe không kính ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào chiến trường. Khổ thơ tiếp theo nói tới sinh hoạt trên đường của họ :
.
. “ Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời
. …………
. Lại đi, lại đi, trời xanh thêm “
. Sinh hoạt của người lái xe, cái ăn cái ngủ bình thường của con người, được tóm lược vào trong hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh[”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cững chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa …
. Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng …
. ` Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn:
.
. “ Không có kính rồi xe không có đèn
. ………..
. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
.
. Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.” Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rể phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường,giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim co người đã cầm lái ? Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng ngưới đọcvề một chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là co người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niền lạc quan và mọi niền tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hìng tường nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lài mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy.
. Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác họa những hình tượng đẹp về người lính lái xe trên tuyền đường Trường Sơn trong những năm cứu nước. những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đõa để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính. Cám ơn nhà thơ đã cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm về cha anh trước đây trong thời đất nước có chiến tranh. Hiểu được điều đó, có lẽ ,chúng ta, những học sinh sẽ sống tốt hơn
 
N

namhieuthai

giúp mk lm bai văn này nhé!
Viết 1 đoạn văn theo cách lập luận diễn dịch ( khoảng 10 câu) trình bày cảm nhận của e về khổ thơ đầu trong " bài thơ về tiểu đội xe không kính" của phạm tiến duật
 
Top Bottom