b. Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:
Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đã góp tiếng thơ mình vào việc phản ánh những sự kiện, những vấn đề trọng đại của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp thời chuyển biến cách nhìn, cách nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới. Liên tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975).
- Trong khuynh hướng chung của thơ chống Mỹ, thơ Huy Cận tăng cường tính thời sự và tập trung vào việc khẳng định, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam. Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy ngẫm về quá khứ và hướng về tương lai; từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới, với thời đại. Giữa ngất trời đạn bom, cái nhìn của nhà thơ vẫn hướng về öphía khái quát để phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền thống của đời sống con người Việt Nam:
Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Ði trên mảnh đất này)
- Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rõ trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự kiện chính trị-xã hội hay những chi tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết lý của vấn đề.
Trước ngã ba Ðồng Lộc - một trọng điểm trên tuyến đường vào Nam, nơi ghi dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom - Huy Cận nghĩ đến ý nghĩa quyết định của những ngã ba trong đời mỗi người, mỗi dân tộc:
Qua trái tim ngã ba Ðồng Lộc
Máu qua tim máu lọc
Xe vượt ngã ba xe xốc tới miền Nam
...Những ngã ba Việt Nam
Trên đường dài kẻ địch còn găm
Nhiều bom nổ chậm
...Ðường sẽ thông xe đi về Cách mạng
(Ngã ba Ðồng Lộc)
Bằng những hình ảnh giản dị, cụ thể, Huy Cận tập trung ngợi ca sức quật khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung của con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến một khái quát có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu trong cảm xúc và hình tượng thơ, tạo nên tâm thế bình tỉnh, tự tin của cả một dân tộc anh hùng trước những thử thách ác liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn êm đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng tơ, gà cục tác,... bất kể sự lồng lộn của con ma Mỹ
Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục
Con gà mái lại đâu đây cục tác
Báo với đời thêm một trứng tròn to
Anh bộ đội ngoái đồng ngồi trên mâm pháo bóng tròn vo
Chân lý góp thêm một cách nghĩ, thật giản dị, nhưng đầy triết lý về cuộc kháng chiến trường kỳ
Ðủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong
Trái chín cây đâu phải chín nóng lòng
- Quê hương đất nước, nông thôn Việt Nam luôn là đề tài quen thuộc, không thể thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ, đó là những làng quê yên ả với nhịp sống tưởng như bình lặng nhưng luôn có nhiều xao động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với thời đại mới
Gà gáy trong mưa vẫn tiếng vang
Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng
Ðược mùa giống mới, gà no bữa
Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông
(Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa)
***Hai bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):
Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến trẻ con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các em. "Hai bàn tay em" khai thác đề tài từ những sự vật, khung cảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ con (con cóc, con ve, con dế, cái chong chóng, buổi trưa hè,...); những khía cạnh tình cảm gia đình thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện lịch sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.
Tập thơ như những bài học nhằm giáo dục các em lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn kết,...Không là những lời giáo huấn khô khan, tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:
- Buổi trưa lim dim
Nghìn con mắt lá
Bóng cũng nằm im
Trong vườn êm ả
- Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé
Giật mình bưởi rơi
*Từ 1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời hàng ngày quanh mình; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).
Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ý nghĩa nhân sinh cao cả từ những biểu hiện bình dị của đời thường:
Yêu mãi, yêu rồi, đâu hết yêu
Cuộc đời như miếng đất phì nhiêu
Trồng bao nhiêu vụ còn tươi tốt
Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo
(Hạt lại gieo)
III. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN
1. Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có "cái nghiêng tai kỳ diệu"(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.
+ Trước 1945, tuy vật vã với nỗi sầu đau nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn thấm thía tình người, tình đời (Ngậm ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):
- Ðêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
- Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:
Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá
Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ
Tiếng lao xao như ai ngả nón chào
Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao
Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm
(Chiều thu quê hương)
+ Năng lực ấy không chỉ có được bằng sự tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê hương) mà còn xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ - một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời sống.
+ Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,... Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. "Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình" (Xuân Diệu).