[Ngữ văn] Văn 10

T

thuyhoa17

1. Mị Châu
Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông ngỗng không biết tự giấu mình
Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.
Giá như trên đời còn có một Mị Châu
Vừa say đắm yêu đương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mị Châu như ta vẫn hằng mơ.

2.

Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ, việc quân vương
Duyên nợ tình kia dở dở dang
Nệm gấm vó câu,
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng,
Nghìn thu khói nhang

3. Cổ Loa hoài cảm.

Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa,
Trải bao gió táp với sương sa.
Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc,
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh,
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa.
Hưng vong biết chửa người kim cổ ?
Tiếng quốc năm canh bóng nguyệt tà.
 
C

chupin_gaucon

đại nam quốc sử diễn ca
Thục từ dứt nước Văn Lang
Đổi tên Âu Lạc, mới sang Loa thành.
Phong Khê là đất Vũ Ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim qui.
Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh Quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.

Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu Cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi
Lĩnh Nam mấy chốn biên thùy,
Quế Lâm, Tượng Quận thu về bản chương
Đặt ra úy, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn
Hai người thống thuộc đã quen,
Long xuyên, Nam hải đôi bên lấn dần
Chia nhau thủy bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì ?
Nhâm Ngao mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu úy, Nam là Thục vương.

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rằng Nam Bắc một nhà
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu,
Gả cho Trọng Thủy, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc qui.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thủy chung
Rằng: "Khi đôi nước tranh hùng,"
"Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây ?"
"Trùng lai dù họa có ngày,"
"Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau"
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
An Dương Vương cậy nỏ thần
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu li,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim qui đâu lại hiển linh
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái A cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm tròn
Nghe thần rồi lại tin con
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai ?
__________________
 
Top Bottom