Ngữ văn 9

WonOk2

Học sinh
Thành viên
17 Tháng chín 2017
20
10
39
21
Kon Tum
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Hãy nêu cảm nghĩ của em về đoạn thơ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vào mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Mọi người giúp em với ạ, gấp lắm!!
 
  • Like
Reactions: linh232

Lissell

Học sinh chăm học
Thành viên
4 Tháng tám 2017
135
74
59
Hà Nội
Tình cảm đồng chí được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "ruộng nương anh gởi bạn thân cày”, “gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính...''. Từ những lời tâm tình ấy, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt xỏ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại làm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng chịu với nhau "từng cơn ớn lạnh", những lúc “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu "áo anh" có "rách vai”, “quần tôi" có “vài mảnh vá", dẫu trời có "buốt giá" thì miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách "nắm lấy bàn tay", “thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật giản dị và cảm động Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương, những người chiến sĩ hiểu hiện tình đồng chí là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực chi tiết mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh “anh với tôi" gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau" nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ "tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.

Nguồn: loigiaihay.com
 
  • Like
Reactions: WonOk2

Yun KM

Học sinh tiến bộ
Thành viên
11 Tháng mười một 2017
563
697
156
Hà Nội
Hãy nêu cảm nghĩ của em về đoạn thơ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vào mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Mọi người giúp em với ạ, gấp lắm!!
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến tháng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?

Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:

"Bấm tay tính buổi anh đi,

Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?

Lúa xanh xanh ngắt chân đê,

Anh đi là để giữ quê quán mình.

Cây đa bến nước sân đình,

Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.

Hoa cau thơm ngát đầu nương,

Anh đi là giữ tình thương dạt dào.

(...) Anh đi chín đợi mười chờ,

Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày..."

Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
- GG
 

Hanh157

Học sinh chăm học
Thành viên
20 Tháng tám 2017
202
247
124
21
Đồng Nai
THPT Long Khánh
Trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam có thể xem là những trang vàng về chặng đường xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Có lẽ chính vì vậy mà hình tượng người lính cách mạng đã được khai thác, đào sâu trong nhiều tác phẩm thơ văn qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau. Một trong những bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp và tình cảm gắn bó keo sơn của họ đó là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Nhà thơ Chính Hữu bắt đầu hoạt động trong quân đội từ năm 1946 và tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Có lẽ vì vậy mà thơ của ông hầu như chỉ hướng về đề tài người lính và chiến tranh. Thu đông năm 1947, Chính Hữu cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc và không may bị thương. Cảm động trước sự quan tâm chăm sóc của những người đồng chí đồng đội, đầu năm 1948, ông viết bài thơ này để thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của mình.
Mở đầu là bảy câu thơ lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí đồng đội. Trước hết là xuất thân của những người lính:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Nước mặn đồng chua” quê anh là một vùng đất ven biển, quanh năm nhiễm mặn nhiễm phèn ; quê tôi “đất cày lên sỏi đá” là vùng đồi núi cằn cỗi, chỉ toàn đá với sỏi. Việc sử dụng hai thành ngữ dân gian trên đã gợi lên cảnh nghèo khó của vùng quê. Nhịp thơ mở đầu chậm rãi, từ tốn như một lời tâm sự bùi ngùi khi nhắc về những làng quê. Lớn lên từ những nơi ấy, “anh” và “tôi” là những người nông dân lam lũ, một nắng hai sương vất vả sớm chiều. Niềm quay trở lại vui được sống trong hòa bình yên ổn chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã xâm lược nước ta, và chiến tranh lại bắt đầu. Họ từ bỏ mọi thứ, vẫy chào quê hương tình nguyện vào chiến trường. Điều gì khiến họ trở nên như vậy? Chính sự nô lệ và cái đói nghèo đã cướp đi cuộc sống và sự tự do của những người nông dân, họ sẵn sàng đứng lên chiến đấu để giành lại miếng cơm manh áo của mình. Đó cũng là lí do để gắn kết những con người từ “xa lạ” bỗng thành “quen nhau”. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm ban đầu của những người lính. Tình cảm ấy như được tô đậm nét hơn khi họ gần gũi, thân thiết với nhau hơn qua từng ngày. Cùng chung lí tưởng chiến đấu, chung một hoàn cảnh xuất thân, chung nhiệm vụ. Và tình đồng chí đồng đội giữa họ như nảy sinh từ những cái chung nhỏ bé đó:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
“Đôi tri kỉ” hiểu bạn như hiểu mình, từ “đôi” thể hiện sự gắn bó mật thiết không thể tách rời được. Để từ đó dòng thơ thứ 7 như một dòng cảm xúc mạnh mẽ tuôn trào
Đồng chí !
Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, vấn vương trong lòng người đọc. Nốt nhạc ấy như một nút thắt của bài thơ: khép lại chặn đường từ những con người xa lạ đến thân quen và mở ra một nguồn xúc cảm mới: tình đồng chí. Tình đồng chí như là một sự kết tinh của tình người và tình bạn, là thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt giữa những người đồng đội luôn kề vai sát cánh bên nhau. Tình đồng chí thể hiện bằng sự thấu hiểu hoàn cảnh, sự cảm thông chia sẻ những tâm tư của nhau
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Đồng chí là những người rời bỏ quê hương, bỏ lại đằng sau những con người thân thương, phải rời xa xóm làng, xa những cánh đồng quê quen thuộc. “Gian nhà không” trống trải gợi lên cái nghèo khó không chỉ của anh lính mà còn là cái nghèo chung của cả một vùng nông thôn buồn tẻ. Vậy mà anh vẫn “mặc kệ” cho “gió lung lay” dẫu biết rằng khi trở về, căn nhà tạm bợ ấy có thể không còn đứng vững. Điều đó thể hiện quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của những người nông dân mặc áo lính để tìm lại linh hồn cho Tổ quốc Việt Nam. Nhưng đâu đó, trong sâu thẳm hoài niệm của những người lính kia vẫn nằm lòng nỗi nhớ về quê hương
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trở lại với cuộc sống chiến đấu nơi chiến trường ác liệt, chống chọi với cái nóng lạnh của sốt rét rừng, họ luôn đồng cam cộng khổ, chia sẻ cho nhau những khó khăn, thiếu thốn về vật chất:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những thiếu thốn nhỏ nhoi đó được diễn tả bằng những từ ngữ vô cùng mộc mạc, giản dị cùng giọng thơ bình thản không chút bận tâm. Không như:
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
trong bài “Ngày về” của nhà thơ. Dường như ở hai câu này, quần áo, giày dép như được lý tưởng hóa lên, đậm chất trữ tình hơn. Vượt qua hoàn cảnh ấy, những người đồng chí vẫn “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó là cử chỉ thân thương đơn giản nhưng qua nó, họ truyền những hơi ấm tình thương cho nhau, truyền nghị lực chiến đấu cho nhau trong phiên canh gác. Giữa cảnh núi rừng mênh mông heo hút giữa đêm khuya, họ“đứng cạnh bên nhau”, kề vai sát cánh bên nhau “chờ giặc tới” dưới màn sương muối lạnh lẽo cùng nụ cười ngạo nghễ trên môi. Nụ cười “buốt giá” ấy là nụ cười lạc quan chiến thằng, là nụ cười tỏa sáng trong đêm, sưởi ấm tâm hồn những con người anh dũng. Nụ cười ấy còn soi sáng bức tranh vô cùng lãng mạn và độc đáo cuối bài:
Đầu súng trăng treo.
Hình ảnh này vừa gợi lên sự chông chênh giữa khung trời bát ngát, vừa gợi lên sự lãng mạn, bay bổng. Sự hòa quyện giữa hai đối cực: hiện thực và lãng mạn, chiến đấu và trữ tình đã gắn kết ba hình ảnh làm một: người lính, khẩu súng, vầng trăng. Trăng treo đầu súng tạo nên chiều cao, những người lính đứng cạnh nhau tạo nên chiều rộng và ý chí chiến đấu tạo nên chiều sâu. Tất cả đã tạo nên một không gian thi trung hữu họa thật đặc sắc. Từ hình ảnh thực nơi chiến trường, tác giả đã nâng lên thành hình ảnh khái quát mang ý nghĩ tượng trưng cho vẻ đẹp tinh thần của người lính. Súng và trăng – gần và xa – thực tại và mơ mộng. Đó là vẻ đẹp hài hòa của người chiến sĩ – thi sĩ. Súng là biểu tượng của chiến tranh ác liệt. Trăng là vẻ đẹp của hòa bình, tự do. Súng là lí tưởng chiến đấu của người chiến sĩ. Trăng là tâm hồn của người thi sĩ. Súng nơi quân giặc là tang thương đẫm máu. Súng nơi người lính là sự bảo vệ chở che cho vầng trăng hòa bình. Cuộc chiến đấu hôm nay là để cho ánh trăng hòa bình mãi thắp sáng bầu trời khuya trên quê hương người chiến sĩ mai sau. Động từ “treo” với chủ thể “trăng” tạo một hình ảnh vô cùng độc đáo và lí thú. Hình ảnh ấy thật cô đọng, gợi cảm mà sâu sắc, lắng sâu vào tâm hồn người đọc, nó kết thúc bài thơ đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó.
Bài thơ khai thác vẻ đẹp của hình ảnh người nông dân mặc áo lính từ cuộc sống đời thường, ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, chân thực mà giàu sức biểu cảm nhờ thể thơ tự do. Tình cảm gắn bó của những người đồng chí đồng đội đã làm nên một sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nên thắng lợi lịch sử vẻ vang của dân tộc ta là chấn động địa cầu: chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, kết thúc chín năm kháng Pháp ròng rã gian lao. Chính Hữu như đã khắc vào cả một giai đoạn lịch sử một bức tranh bất diệt của những người lính nông dân.
Nguồn: http://lazi.vn/edu/exercise/cam-nha...on-on-lanh-sot-run-nguoi-vung-tran-uot-mo-hoi
 

Cún111

Học sinh chăm học
Thành viên
26 Tháng mười một 2017
244
133
59
Cần Thơ
THCS Bùi hữa nghĩ
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình Đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lảng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng.

Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cám xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:

Quê hương anh đất mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sổng là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kí

Đồng chí!...

Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc.... Nhưng... họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ củu những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm... Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa... Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cá những người lính. Tình đồng chí:

Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết

(Nhớ - Hồng Nguyên)

Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:

Đầu súng trăng treo

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:

Chiến tranh ở rừng Trăng thành tri kí

(Ánh trăng - Nguyễn Duy)

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.
 
Top Bottom