H
huradeli
![](https://blog.hocmai.vn/wp-content/uploads/2017/07/hot.gif)
![](https://blog.hocmai.vn/wp-content/uploads/2017/07/hot.gif)
thuật lại 8 câu thơ cuối trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích bằng văn xuôi, chú ý miêu tả nội tâm của nàng kiều
Bạn tham khảo tại đây
http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=226885
Bài làm
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều. (Tố Hữu) Hai câu thơ giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót thương của ông đối với một nàng Kiều - hiện thân của một số phận bi đọa đày dưới thời phong kiến. Ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau đó, tâm trạng của Kiều qua tám câu thơ tuyệt vời sau:
Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đời một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi… Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật. Những dòng thơ lúc bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm tháng đi qua vẫn làm say đắm lòng người. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương bỗng trào lên da diết: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa? Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng đang dần lịm tắt. Cảnh biển bao la một cánh buồm chấp chơi gợi nỗi buồn day dứt quá. Cảnh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như không: “thấp thoáng”, “xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình, mà còn gợi tình, gợi cảm. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh của cánh buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi “góc bể chân trời” ? Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh chim nhỏ nhoi trồng. Câu thơ của ông phảng phất phong cách diễn đàn của ca dao:
Chiều chiều ra đứng bờ sông Muốn về quê mẹ mà không có đò. Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát khao nhưng vô cùng mệt mỏi: “Buồn trông…”. Âm điệu lời thơ buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn đoá hoa nổi trôi, bập bềnh vô định: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, “Biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình ảnh “hoa trôi man mác” gợi nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một đoá hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn hoa trôi Kiều liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo hoa tàn. Kiều lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong giông tố. Một ngày kia con chim không tổ kia có chết rũ bên đường? Hình ảnh "hoa trôi" gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi lẽ dân gian thường dùng hình ảnh "bèo dạt mây trôi" để nói về kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Những câu ca dao ấy đã "phổ vào" hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ. Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thuý Kiều. Xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm một màu sắc buồn tẻ, héo tàn:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trỉa, tạo cho ta cảm giác được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của nhân vật trước cảnh vật mênh mông một màu buồn. Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi cảm ở mộ Đạm Tiên. Có khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một ngôi mộ cụ thể mà thôi. Màu "xanh xanh" làm cho cỏ cây không còn nét tươi sáng lại thêm vẻ "rầu rầu", làm cho sự sống càng thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm. Giữa bốn bề phong cảnh tẻ buồn ấy, Kiều chợt nghe, chợt thấy: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ gợi thanh :"ầm ầm", "kêu". Hình ảnh những đợt sóng cuộc lên, trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy "gió cuốn", nghe "sóng kêu" bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh đầy dự báo đã mách bảo với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước. Cả tám câu thơ đều "xoay tròn" trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với phép điệp ngữ kiên hoàn "Buồn trông...", "Buồn trông..." các câu thơ không chỉ có âm điệu buồn, mà còn làm ta "chóng mặt" trước diễn biến tâm trạng của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự thông cảm sâu sắc yêu thương Thuý Kiều biết bao!
Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hoà, thi sĩ Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức tranh tâm lí tình cảm đầy xúc động, mãi mãi làm "say lòng người"
Nguồn:google
Bạn tham khảo tại đây
http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=226885
Bài làm
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều. (Tố Hữu) Hai câu thơ giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót thương của ông đối với một nàng Kiều - hiện thân của một số phận bi đọa đày dưới thời phong kiến. Ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau đó, tâm trạng của Kiều qua tám câu thơ tuyệt vời sau:
Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đời một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi… Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật. Những dòng thơ lúc bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm tháng đi qua vẫn làm say đắm lòng người. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương bỗng trào lên da diết: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa? Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng đang dần lịm tắt. Cảnh biển bao la một cánh buồm chấp chơi gợi nỗi buồn day dứt quá. Cảnh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như không: “thấp thoáng”, “xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình, mà còn gợi tình, gợi cảm. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh của cánh buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi “góc bể chân trời” ? Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh chim nhỏ nhoi trồng. Câu thơ của ông phảng phất phong cách diễn đàn của ca dao:
Chiều chiều ra đứng bờ sông Muốn về quê mẹ mà không có đò. Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát khao nhưng vô cùng mệt mỏi: “Buồn trông…”. Âm điệu lời thơ buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn đoá hoa nổi trôi, bập bềnh vô định: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, “Biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình ảnh “hoa trôi man mác” gợi nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một đoá hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn hoa trôi Kiều liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo hoa tàn. Kiều lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong giông tố. Một ngày kia con chim không tổ kia có chết rũ bên đường? Hình ảnh "hoa trôi" gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi lẽ dân gian thường dùng hình ảnh "bèo dạt mây trôi" để nói về kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Những câu ca dao ấy đã "phổ vào" hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ. Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thuý Kiều. Xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm một màu sắc buồn tẻ, héo tàn:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trỉa, tạo cho ta cảm giác được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của nhân vật trước cảnh vật mênh mông một màu buồn. Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi cảm ở mộ Đạm Tiên. Có khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một ngôi mộ cụ thể mà thôi. Màu "xanh xanh" làm cho cỏ cây không còn nét tươi sáng lại thêm vẻ "rầu rầu", làm cho sự sống càng thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm. Giữa bốn bề phong cảnh tẻ buồn ấy, Kiều chợt nghe, chợt thấy: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ gợi thanh :"ầm ầm", "kêu". Hình ảnh những đợt sóng cuộc lên, trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy "gió cuốn", nghe "sóng kêu" bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh đầy dự báo đã mách bảo với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước. Cả tám câu thơ đều "xoay tròn" trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với phép điệp ngữ kiên hoàn "Buồn trông...", "Buồn trông..." các câu thơ không chỉ có âm điệu buồn, mà còn làm ta "chóng mặt" trước diễn biến tâm trạng của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự thông cảm sâu sắc yêu thương Thuý Kiều biết bao!
Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hoà, thi sĩ Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức tranh tâm lí tình cảm đầy xúc động, mãi mãi làm "say lòng người"
Nguồn:google
mình vẫn thấy nó giống phân tích, đây lak fai viết lại bằng văn xuôi mà bạnGợi ý thêm cho bạn nha
Tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động diễn tả tâm trạng buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
a. Giới thiệu xuất xứ đoạn trích dựa vào những hiểu biết về vị trí của nó trong văn bản và tác phẩm.
b. Phân tích các cung bậc tâm trạng của Kiều trong đoạn thơ :
- Điệp từ "Buồn trông" mở đầu cho mỗi cảnh vật qua cái nhìn của nàng Kiều : có tác dụng nhấn mạnh và gợi tả sâu sắc nỗi buồn dâng ngập trong tâm hồn nàng.
- Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà bên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mác đến "nội cỏ rầu rầu, tiếng sóng ầm ầm" đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều : sự cô đơn, thân phận trôi nổi lênh đênh vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ. Đúng là cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều : cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác lo âu đến kinh sợ. Ngọn giáo cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
c. Khẳng định nỗi buồn thương của nàng Kiều cũng chính là nỗi buồn thân phận của bao người phụ nữ tài sắc trong xã hội cũ mà nhà thơ cảm thương đau xót.
Cái này bạn không cần thanks đâu.Mod cũng không cần xác nhận đâu ạ!Tại tớ rỗi nên giúp bạn cho bạn tham khảo thêm thôi.
mình vẫn thấy nó giống phân tích, đây lak fai viết lại bằng văn xuôi mà bạn