[Ngữ Văn 9] Phân tích đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"

  • Thread starter chungthuychung
  • Ngày gửi
  • Replies 2
  • Views 1,309

H

hien_vuthithanh

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn che". Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:


"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiểu thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đêm. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì ái tình riêng khiến lòng như bị xé:

"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy.

Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng. Kiều nhớ về những người thân:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ".

Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu nữa còn xa xiết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, ssớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:

"Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ nàng đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, tối hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều Nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiểu đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xã, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn. Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều "xót":

"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm".

Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.

Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.

"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"

Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:

"Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!"

Cách làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.

"Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".

Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là "cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biêé bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".

"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới xa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh".

"Buồn trông" là nhìn xưa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. "Buồn trông" trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tớ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa tấu phức điều của sóng biển, "sòng lòng", "sóng dời" đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng., yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.

ng gg
 
H

hien_vuthithanh

Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vàomột tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép đượcKiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thựcra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bịxô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hếtđược. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâmtình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấyđể cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính tronglòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đólại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạnxoáy sâu vào tâm can nàng. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lênphía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là nhữngđoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người,không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nànglúc này:“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuânVẻ non xa, tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy:“Trống trải, đơn côi”: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuyaNữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyềndưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong củachang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia likhông nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:“Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTinh sương luống những rày trông mai chờBên trời góc bể bơ vơTấm son gột rửa bao giờ cho phai”


Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền baxuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫncảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ giàyếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:“Xót người tựa của hôm maiQuạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?Sân Lai cách mấy nắng mưaCó khi gốc tử đã vừa người ôm”Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khiphải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà khôngđược phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng ThuýKiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹntoàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanglấy nàng.Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôibuồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến vớimình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh khôngsao thoát được!Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiềulại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phậnhiện tại của chính mình.Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trícủa nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn củamình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Dumỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo“Buồn trông”...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”...”Buồn trông ngọn nước mới sa”...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh” Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khótả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miếtcuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”,“sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vàolúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền,một cách buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xaxa”.Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng vớitâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.

Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đờitrôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cáihướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:“Buồn trông gió cuốn mặt duềnhÂm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cáithân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âmthanh khủng khiếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết:“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” củaKiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảngđời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hailần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bútpháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình,trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu).Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây làđoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhàthơ đối với nhân vật, đối với thơ đối với nhân vật đối với con người,với cuộc đời

ng gg
 
Top Bottom