Chùa  Thần Quang hay còn gọi là chùa Keo, thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh  Thái Bình được xây dựng từ năm 1067 vào thời nhà Lý. Chùa Keo là ngôi  chùa nổi tiếng linh thiêng, người làng Keo rất tự hào với ngôi chùa vừa  cổ kính, vừa nguy nga của làng mình                    
                    Từ  thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi  khoảng 10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng  không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên  giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông  Trà Lĩnh bồi đắp.
 Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến  trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc  bộ. Chùa không chỉ là một bức tranh sinh động cho lịch sử văn hóa nước  ta trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20, mà còn là nơi gặp gỡ giữa kiến  trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.
Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân  đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một  trục dài cao thấp khác nhau.
 Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân  lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh  cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu  mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời  nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê.
 Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.
 Đi đến phần chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Ngôi nhà ở  ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà  trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng Thích Ca nhập Niết bàn,  tượng Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề đặt giữa tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền  Bồ Tát. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng.
 Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư. Toàn bộ công  trình đều làm bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời  nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo.
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có  những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy  lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có  một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã từng dùng giã  gạo nuôi thợ xây chùa từ xưa.
 Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo.  Gác chuông chùa Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng  mái,kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm  bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao  loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên  một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20 m.  Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30 m, đường kính 1 m.  Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính  0,69 m đều được đúc năm 1796.
Hai hành lang chạy dài từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.
 Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền  là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi  to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do  Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước  trong những năm tháng tu hành.
 Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc  kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn  đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa  chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm  tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ  thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.
 Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng.
 Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo  lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không  Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 Âm  lịch).
 Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình,  thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề  tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
 Có câu ca dao về hội chùa Keo:
 Dù cho cha đánh mẹ treo, 
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.