[Ngữ văn 8] Nội dung ôn tập HKI ngữ văn 8

T

tvxqfighting

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

I/ Viết đoạn văn ngắn: (2.5 điểm)
1) Viết đoạn văn 8-10 câu trình bày luận điểm: Lão Hjax là 1 người cha có tình yêu thương con sâu sắc. Trong đoạn có sử dụng thán từ và câu ghép(gạch dưới thán từ và câu ghép)
2) Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày luận điểm: Lão Hạc là 1 ông lão nông dân giàu lòng nhân hậu. Trong đoạn có sử dụng dấu ngoặc đơn và biện pháp nói giảm nói tránh (gạch dưới biện pháp nói giảm nói tránh)
3) Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày cảm nghĩ của em về nhân vật chi Dậu trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ " (Trích tiểu thuyết "Tắt đèn") của Ngô tất tố. Trog đoạn có sử dụng dấu ngoặc kép (đi kèm với dấu hai chấm) và trợ từ (gạch dưới trợ từ)

II/ Viết bài TLV (5 điểm)
1/ Thuyết minh về cây hoa đào ngày Tết
2/ Thuyết minh về 1 thể loại văn học (thất ngôn bát cú đường luật)

Giúp em với, thứ 3 em thi rồi. Ths ạ!!!
Các anh chị làm bài văn về hoa đào giúp em làm đúng trình tự như thế này với ạ:
A. Mở bài:Giới thiệu chung về loài hoa đó (cụ thể là hoa đào)
B. Thân bài:
1. Giới thiệu sơ lược về nguồn gốc, xuất xứ của loài cây, loài hoa đó
2. Thuyết minh về cấu tạo, đặc điểm của loài hoa em yêu thích
3. Thuyết minh về quá trình chăm bón, chăm sóc
4. Công dụng của loài cây, loài hoa
C. Kết bài: Khẳng định vai trò, giá trị của loài hoa trong cuộc sống, nêu suy nghĩ, cảm xúc của mình về loài hoa đó.
 
Last edited by a moderator:
G

ga_cha_pon9x

phần II trước nhé:D

Bài 2:
Thơ Ðường Luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Ðường (618-907) bên Tàu, có luật lệ nhất định, thường gọi là Thơ Luật để phân biệt với Thơ Cổ Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.

Thơ Luật có 4 thể: Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú. Thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân... Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kỳ thi cũng bắt thí sinh làm một bài. Sau đây xin trình bày khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:

I. BỐ CỤC: Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:

1- Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:
- Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.
- Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.
2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.
3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.
4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.

II. LUẬT LỆ CĂN BẢN:

1- Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.
Ví dụ: "tà, hoa, nhà, gia, ta" trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần "a".
Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.

Ghi chú:
Vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).
Vần điệu: Ðiệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ, điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.
Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ.
Tiết tấu: tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.
Thi nhạc (gồm vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.

2. Ðối: là phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:
Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từỳ...
Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.
Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.

Sau đây xin mời quý vị thưởng thức những cặp đối thần sầu của các thi sĩ tiền bối:

* Thi hào Nguyễn Trãi:
- Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh
- Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về
- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh

* Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
- Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
- Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
(Làm Lẽ)
("Cố đấm ăn xôi" và "Làm mướn không công" là 2 câu tục ngữ)
- Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
(Không Chồng Mà Chửa)
(Trong Hán tự, chữ THIÊN nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành ra chữ PHU là chồng. Chữ LIỄU nếu thêm nét ngang thì thành ra chữ TỬ là con)
- Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu Nữ)
- Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)
("suông không đấm" và "đếm lại đeo" đều có nghĩa nói lái rất tục)
- Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
(Sư Hổ Mang)
- Gió giật sườn non kêu lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
(Kẽm Trống)

* Thi sĩ Nguyễn Khuyến:
- Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh trăng loe
- Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo
- Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

* Thi sĩ Trần Tế Xương:
- Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ngậm ớt thế mà cay
- Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà
- Chí cha chí chát khua giày dép
Ðen thỉ đen thui cũng lụa là
- Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
- Sỉ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
- Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
- Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu
- Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ
Sờ bụng thầy không một chữ gì
("Gà phải cáo" và "Cố đấm ăn xôi" là 2 câu tucỳ ngữ)

3. Luật: tức thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ:
"Nhất tam ngũ bất luận": bất luận là không ràng buộc,
"Nhị tứ lục phân minh": phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh: "nhị bằng tứ trắc lục bằng", hay ngược lại: "nhị trắc tứ bằng lục trắc"

- Sau đây là bài thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng:

Câu 1: BBTTTBB
Câu 2: TTBBTTB
Câu 3: TTBBBTT
Câu 4: BBTTTBB
Câu 5: BBTTBBT
Câu 6: TTBBTTB
Câu 7: TTBBBTT
Câu 8: BBTTTBB

- Sau đây là bài thất ngôn bát cú luật trắc vần bằng:

Câu 1: TTBBTTB
Câu 2: BBTTTBB
Câu 3: BBTTBBT
Câu 4: TTBBTTB
Câu 5: TTBBBTT
Câu 6: BBTTTBB
Câu 7: BBTTBBT
Câu 8: TTBBTTB

Âm là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu: 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), bốn thanh TRẮC gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).
Trong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.
Trong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1 câu thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.

4. Niêm: nghĩa là dán cho dính lại. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác NIÊM là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường Luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.

Hai chữ thứ hai cùng một thanh đượỳc sắp xếp như sau đây hay ngược lại:

Chữ thứ 2 câu 1: trắc
Chữ thứ 2 câu 2: bằng
Chữ thứ 2 câu 3: bằng
Chữ thứ 2 câu 4: trắc
Chữ thứ 2 câu 5: trắc
Chữ thứ 2 câu 6: bằng
Chữ thứ 2 câu 7: bằng
Chữ thứ 2 câu 8: trắc

Nếu không theo đúng như thế gọi là thất niêm.

III. VÍ DỤ: một bài thơ mẫu:

Qua Ðèo Ngang

Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một cảnh tình riêng ta với ta.

Bà Huyện Thanh Quan

Ðây là bài thơ Ðường luật thất ngôn bát cú luật trắc (chữ TỚI) vần bằng (chữ TÀ). Niêm luật vần đối đúng phép. Bố cục chia làm 4 phần rõ rệt:
Mạo: giới thiệu tổng quát cảnh Ðèo Ngang.
Thực: tả cảnh Ðèo Ngang.
Luận: nhớ nước thương nhà.
Kết: tình riêng tác giả.

Về vần: Năm chữ: tà, hoa, nhà gia, ta: vần với nhau rất chỉnh.
Về đối: Hai cặp thực và hai cặp luận đối nhau chan chát: chữ đối chữờ, ý đối ý.
Về luật: Luật trắc (ở chữ TỚI). Cả 8 câu thơ đều đúng luật.
Về niêm: Rất chặt chẽ: chữ TỚI niêm với chữ CẢNH cùng là trắc, chữ CÂY niêm với chữ KHOM cùng là bằng, chữ ÐÁC niêm với chữ NƯỚC cùng là trắc, chữ NHÀ niêm với chữ CHÂN cùng là bằng.

IV. KẾT LUẬN:

Trên đây chỉ là những quy tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần/ hồn của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến gieo vần "ao" nhưng câu 2 lại gieo vần "iu":
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Và bài "Tổng Vịnh Truyện Kiều" của Chu Mạnh Trinh gieo vần "ương" nhưng câu 4, câu 8 lại gieo vần "ang" là "chàng" và "vàng":
Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương
Sắc tài chi lắm để làm gương
Công cha bao quản liều thân thiếp
Sự nước xui nên phụ với chàng
... Ðem bắt đồng cân đáng mấy vàng.
Chữ "chàng" tuy gieo không chính vận, nhưng khi đọc lên... nó phát ra một âm thanh nghe não nề, trầm buồn, vang dội trong tâm hồn ta.

Bài "Thu Ðiếu" của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê "tả cảnh" suốt cả 8 câu; còn về vần thì trong 5 chữ : "veo, teo, vèo, teo, bèo", đã có đến 2 chữ "teo" trùng nhau vốn là điều cấm kỵ trong 1 bài thơ luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Ðỗ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì Cụ thấy 2 từ ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của Cụ. Ðiều này cho thấy Cụ là một nhà Nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu Ðiếu xưa nay vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa Thu hay nhất trong thơ ca Việt Nam.

Cũng chính vì luật tắc quá gò bó khó khăn của nó mà giới Nho sĩ Việt Nam đã bị kiềm hãm trong suốt một nghìn năm, chẳng để lại cho hậu thế được bao nhiêu bài thơ hay so với thể thơ mới. Thời tiền chiến xảy ra một trận bút chiến vang dội cả ba miền giữa thơ mới và thơ cũ, cuối cùng thơ cũ đại bại nhường thi đàn lại cho thơ mới thống trị đến ngày nay. Ngay nhà thơ Quách Tấn chuyên làm Thất ngôn bát cú với tác phẩm "Mùa Cổ Ðiển", về sau cũng từ giã nhảy qua thể Thất ngôn tứ tuyệt với thi tập "Ðọng Bóng Chiều".

Ngày nay, thể Thất Ngôn Bát Cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... mạnh dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa xài điển tích, thích dùng Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn... để trở về với tình tự cội nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.

Nguồn:hocmai
 
G

ga_cha_pon9x

Bài 1:Dàn ý chi tiết :(:
1.Mở bài:
Ngày Tết được báo hiệu bởi những cơn mưa xuân ấm áp, những lộc non mơm mởn trên những cành cây, nhưng quan trọng nhất là sự xuất hiện của những cành mai, cành đào được bày bán trên vỉa hè của khắp các khu phố.
2. Thân bài:
- Cây đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) là một loài cây có lẽ có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng lá, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng 2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa.
- Hoa đào có rất nhiều loại: Đào phai, đào ta, bạch đào,đào bích.... Đào bích là loài hoa đào phổ biến, cành hoa thắm sắc, hoa rải đều khắp các cành, các tán, xen lẫn nụ hoa xinh với những lộc xanh, chen lẫn những cánh hoa xòe tán với những nụ vừa nhú. Bích đào dù được cắm trong lọ để phòng khách, trên bàn tiếp khách hay vài cành nhỏ cắm trên bàn thờ gia tiên cũng đều đẹp. Đào phai hoa kép, sắc hồng phảng phất kiêu kì. Một cành đào phai có giá cao hơn đào bích mà cũng khó tìm được cành ưng ý hơn.
- Có lẽ, hoa đào được ưa chuộng cũng vì sự tích cùa nó:ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, Bắc Việt, có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sự luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay. Ðến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Luỹ phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ để xua đuổi ma quỷ. Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều có một cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma quỷ.
- Để có một cây hoa đào đẹp, một cành hoa đào thắm tươi, những người trồng đào phải rất vất vả. Chúng ta sẽ có một cây đào con, cao khoảng 50-60 cm khi thời gian gieo hạt là 7-8 tháng trước đó. Vì vậy, để có những chậu đào vào dịp Tết thì đào thường được trồng vào mùa thu(tháng 8,9,10). Đầu tiên, chúng ta phải tiến hành đem gieo hạt đào dại, đào đắng để làm gốc ghép. Sau đó, chúng ta phải bón phân tăng trưởng, thuốc trừ sâu cho từng cây. Người trồng đào cũng cần phải giữ đào trong một nhiệt độ nhất định để đảm bảo đào ra hoa đúng vào dịp Tết Nguyên Đán.
3. Kết bài:
Hoa đào là đặc trưng của miền Bắc trong dịp Tết đến, xuân về. Đối với em, một cành đào có thể thay thế cho bất kì loài hoa, quả nào của mùa xuân. Nhìn hoa đào chúm chím môi hồng trên cành là thấy xuân về, đất trời như bừng tỉnh trong hương sắc mùa xuân. Dù ở xa quê hương, chắc chắn trong lòng mỗi người con gốc Việt cũng khó có thể quên được màu hồng tươi thắm, trong sáng của hoa đào và niềm hạnh phúc tinh thần của mỗi người dân Việt do loại hoa thần kì đó mang lại.
 
T

tvxqfighting

3) Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày cảm nghĩ của em về nhân vật chi Dậu trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ " (Trích tiểu thuyết "Tắt đèn") của Ngô tất tố. Trog đoạn có sử dụng dấu ngoặc kép (đi kèm với dấu hai chấm) và trợ từ (gạch dưới trợ từ)
Em làm bài này mọi người đọc và sửa giúp với ạ
Nhân vật chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" của tác giả Ngô Tất Tố có 1 tình yêu thương chông và tinh thần phản kháng quyết liệt chống lại cường quyền, áp bức mạng mẽ. Chị đã rất chăm lo, lo lắng cho tính mang của chồng vì anh Dậu bị đánh trói ngất đi vừa mới tỉnh lại. Để bảo vệ chồng, chị đã dùng những lời lẽ tha thiết van xin bọn chúng tha cho anh Dậu nhưng bọn chúng ko đếm xỉa gì tới lời cầu xin của chị mà vẫn khăng khăng xông vào bắt trói anh Dậu trong khi anh đang ốm nặng, tình thế ấy buộc chị phải đứng lên tự vệ đánh ngã cả 2 tên này, đồng thời cách xưng hô của chị cũng thay đổi hẳn:
- Mài đánh chồng bà đi, ........
Chị ko xưng là "ông,cháu" nữa mà chuyển sang xưng "bà,mày", tỏ thái độ bằng vai phải lứa với chúng. Chị Dậu là đại diện cho mẫu phụ nữa nôn dân thời bấy giờ, với tấm lòng yêu thương chồng con sâu sắc và tinh thần đấu tranh chống cường quyền bạo lực mạnh mẽ.
 
G

ga_cha_pon9x

Còn một vài lỗi chính tả,chắc do bàn phím nhà em:D.Bài của em dường như thiên về kể lại cuộc đấu tranh giữa chị Dậu và cai lệ.Đề bài là cảm nghĩ thì em nên đưa yếu tố biểu cảm làm sao cho bài viết không bị khô khan quá nhưng cũng không kể lể,dài dòng quá.
Bài này cần phan tích chị Dậu trong 2 khía cạnh
_Chị Dậu ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa vụ sưu thuế :
+Hoàn cảnh : Giữa vụ sưu thuế căng thẳng , nhà nghèo , chị phải bán cả con , đàn chó mới đẻ & gánh khoai cối cùng mới đủ suất tiền sưu cho anh D để cứu chồng đang ốm yếu , bị đánh đập ngoài đình về . Nhưng có nguy cơ anh D lại bị bắt nữa bì chưa có tiền nộp sưu cho người em ruột đã chết từ năm ngoái . Lúc này , bà cụ hàng xóm mang cho bát gạo để chị nấy cháo cho chồng ăn .
+ Cách chị D chăm sóc chồng : (Lấy dẫn chứng trong bài)
=> Chị D là ng` phụ nữ đảm đang , hết lòng yêu thg chôg` con , tính tình vốn dịu dàng , tình cảm ...
Ngoài ra , sự tương phản trong hình ảnh tần tảo dịu hiền , tình cảm gia đình làng xóm , ân cần , ấm áp với không khí căng thẳng đầy đe dọa của tiếng trống , tiếng tù và & thúc thuế ở đầu làng đã làm nổi bật tình cảnh khốn quẫn của người nông dân nghèo dưới ách bóc lột của chế độ pk tàn nhẫn , đặc biệt nổi bật phẩm chất chị D như : bình tĩnh , tình nghĩa , đảm đang ...
Dậu đương đâù với bọn cai lệ & người nhà lí trưởng :
+ Việc chị Dậu đương đầu với bọn cai lệ thể hiện rõ sự ngoan cường của chị Dậu ...
+Trong hoàn cảnh bị áp bức cùng cực , tinh thần phản kháng của chị D được bộc lộ rõ ràng ...
 
Top Bottom