[Ngữ văn 8] Bài về nhà cần gấp

F

firekem

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. Cảm nhận hình ảnh Quê hương trong bài thơ Quê Hương - Tế Hanh
2. Lập dàn bài chi tiết:
Phân tích cái hay của đoạn thơ:

Khi con tu hú gọi bầy,
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần,
Vườn râm dậy tiếng ve ngân,
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,
Trời xanh càng rộng càng cao,
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
 
H

huuthuyenrop2

đây ................................................................................................
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hnah - một tác giả có mặt trong phong trào thơ mới và sau Cách mạng vẫn tiếp tụ sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam thân yêu với những cảm xúc chân thành và vô cùng sâu lắng. Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dong sông đầy nắng trong những buổi trưa. Bài thơ Quê hương là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tê Hanh, được viết bằng tất cả tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động ần cù và yêu cả cánh buồm căng - một hình ảnh đẹp trong bài thơ:
" Cánh buồm giương to hư mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."
Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc của quê hương. Sự so sánh cánh buồm với mảnh hồn làng thật độc đáo và bất ngờ đã làm nổi bật hình ảnh cánh buồm - một hình ảnh bình dị bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và thơ mộng. Cnahs buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Bởi hồn làng chính là linh hồn quê hương mà những người dân chài mang theo, là tình cảm, nỗi nhớ, là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh gửi gắm nơi họ, nơi cánh buồm đầy gió. Có lẽ Tế Hanh như cảm nhận được đó chính là biểu tượng của linh ồn làng nên ông không chỉ vẽ ra chính xác cái hình mà còn gợi được linh hồn của cánh buồm trắng và câu thơ trở nên thật bay bổng , lãng mạn và lớn lao.
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có tư tưởng chán chường, muốn thoát li thực tại, chìm đắm trong cái tôi như nhiều nhà thơ thời ấy. Tế Hanh là hồn thi sĩ hòa quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hòa vào cánh buồm yêu thương.


hoặc :
Hai tiếng quê hương lúc nào cũng gơi lên trong lòng mỗi con người xa xứ 1 nỗi xúc động khôn tả. Đến với Tế Hanh, ta thấy quê hương là nguồn cảm hứng lớn trong suốt đời thơ của ông mà QH là baìi thơ mở đầu. Quê hương ông là làng chài mang nồng mặn hương vị biển, là những chiếc thuyền mạnh mẽ ra khơi. " Chiếc thuyền nhẹ hăng, phăng mái chèo, vượt trường giang, cánh buồm giương to .." Những chiếc thuyền tràn đầy sức sống tượng trưng cho những con người nơi đây làm việc quần quật quanh năm nhưng vẫn chứa đựng 1 niềm vui khi chuyến đi biển trở về thành công, thuận lợi. Với làng chài, với ngư dân nơi đây, cánh buồm tượng trưng cho sức đi xa, cho cuộc sống lao động của dân làng. "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng"- 1 thứ hồn vía quê hương thân thuộc đến bâng khuâng. Những chiếc thuyền trở về- mệt mỏi- nhưng đó lại là sự hân hoan của dân làng " Khắp dân làng tấp nập đón ghe về"-" CHiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm ..." Tuy xa quê nhưng mỗi khi nhắc đến 2 chữ QH, chắc hẳn nó còn hiện lên rõ mồn một trong tâm tưởng, bởi lẻ ông đã gắn bó vs nó suốt thời thơ ấu của mình " Nay xa cách ... " Đó là tất cả màu sắc , hương vị làng chài ven biển, nơi tuổi thơ tác giả đã từng trải, không sao nhầm lẫn đc " màu nc' xanh ...- tôi nhớ ... " Chính cái tình như chất muối thấm đẫm trong từng câu thơ đã tạo nên vẻ đẹp của QH và làm QH đó có sức hút ng` đọc đến lạ kì

hoặc :
hiếc thuyền như con tuấn mã:
Từ ngữ chọn lọc:hăng, phăng, vượt. Diễn tả khí thế băng tới dũng mãnh của con thuyền, toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng, đầy hấp dẫn.
Cánh buồm = hữu hình
Mảnh hồn làng cụ thể = trừu tượng – vô hình

sự so sánh mới lạ, độc đáo, kết hợp nghệ thuật nhân hoá, bút pháp lãng mạn gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao; nhà thơ vừa vẽ ra chính xác “cái hình”vừa cảm nhận được “cái hồn của sự vật. Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm, bút pháp lạng mạn tác giả đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên tươi sáng một bức tranh lao động đầy hứng khởi thể hiện lòng hăng say lao động.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Chiếc thuyền trở về bến nghỉ ngơi" nghe chất muối mặn thấm dần trong thớ vỏ". Biện pháp nhân hóa thể hiện tình cảm của tác giả đối với con thuyền, người bạn gắn bó thân thương của những người dân chài trong cuộc sống trên biển. Thuyền cũng như người, thấm đẫm vị muối mặn mà, như nghĩa tình sâu nặng. Lời thơ tả thực nhưng hình ảnh con thuyền, cánh buồm ... không chỉ dừng lại tầng nghĩa đó, với biện pháp tu từ nhân hóa, nhà thơ đã chuyển hóa thực thể sự vật sang thực thể sinh vật - con người. Chúng biểu tượng cho sức mạnh vượt sóng to gió cả của của con người làng chài , sức sống của làng chài , vẻ đẹp của con người lao động quê hương.
 
W

whitetigerbaekho

Câu 1
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Hai câu thơ mở bài như một lời giới thiệu của tác
giả về làng quê miền biển của mình. Nó là một làng
quê nằm ăn sát ra biển, bốn bề quanh năm sóng vỗ.
Qua hai câu mở bài này, tác giả còn muốn giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở quê
mình, đó là nghề ngư nghiệp. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm
tình của Tế Hanh, nói về công việc thường nhật xảy
ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật
trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh
niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm,
tiến ra biển cả. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng
những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt”
và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ”
với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại
được sử dụng. “Cánh buồm” được so sánh với
“mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn
tiềm tàng trong con người Tế Hanh. Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn,
bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự
hào của cánh buồm vi vu trong gió biển. Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ,
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm. Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Tám câu thơ tiếp theo này thể hiện hình ảnh làng
chài khi những chiếc thuyền cá trở về sau những
ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui
sướng biết bao khi những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài
lưới mang một màu da thật riêng, có một mùi
hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những người yêu
quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh
mới có thể cảm nhận được. Chiếc thuyền cũng mệt
mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được
tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo! Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ:
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Khi viết bài thơ này, tác giả đang ở xa quê hương.
Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ
những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con
thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn
nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà. Kết lại, với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài
thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức
tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền
biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy
sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao
động làng chài. Bài thơ còn cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.
Nguồn : vanmau.com
 
F

firekem

2.

Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.”
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân… Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:
“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn
(…)
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!”
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do

Câu 2 tớ cần dàn ý chi tiết cơ :( đề là lập dàn ý chi tiết cơ mà :) viết dài thế này tớ không biết nên nhặt ý hay ở đâu hết luôn :D
 
N

naniliti

Mình lập dàn ý chi tiết cho bạn nhé ;)
Trước hết, bạn nên định hình cái hay ở đây nghiêng về NT là chính ( ND ngắn thôi nha )

MB: ( Bạn tự làm nhé: Gthiệu tg, tp,...)
TB:
a. Về Nghệ Thuật:
- Hình ảnh thơ vừa quen thuộc, vừa ấn tượng, vừa tiêu biểu cho mùa hè, vừa dạt dào sức sống:
+ Lúa chiêm đang chín...
+ Trái cây ngọt dần...
+ ...


- Thể thơ lục bát -> Cảm xúc tự nhiên

- Giọng điệu: nhẹ nhàng, tươi vui, háo hức -> Vẽ nên 1 bức tranh mùa hè tươi sáng, náo nhiệt, thoáng đãng trong tâm trí người tù

- Hoán dụ: Tiếng chim tu hú là tín hiệu của mùa hè

- Cách sử dụng từ ngữ khéo léo để diễn tả các trạng thái sự vật đang diễn ra, như đang cựa mình lớn lên ấy ^^
( Bạn chỉ ra các từ ấy nhé: đương (chín), (ngọt) dần , lộn nhào

b. Về Nội dung ( Cái này đừng trọng tâm quá là "bay" sang đề khác đấy ^^)

6 câu thơ này đơn giản chỉ là một thế giới mùa hè rực rỡ sắc màu, rộn ràng âm thanh,...( gì gì đó), nhưng đặc biệt và hay ở chỗ nó được sáng tạo qua tâm tưởng một người tù đang phải sống trong một cuộc sống tối tăm, ngột ngạt, đau đớn, không thể tiếp xúc được với thế giới bên ngoài -> Cho thấy khát khao tự do cháy bỏng ntn?

( Viết vậy là được, đừng viết thêm nhé)

c. Tác giả:

- Có sự cảm nhận tinh tế

- Có tâm hồn trẻ trung, yêu đời

- Có khao khát tự do, cháy bỏng


d. Đánh giá

KB: Khổ thơ gợi lên cho bạn điều gì?
 
Last edited by a moderator:
F

firekem

Mình lập dàn ý chi tiết cho bạn nhé ;)
Trước hết, bạn nên định hình cái hay ở đây nghiêng về NT là chính ( ND ngắn thôi nha )

MB: ( Bạn tự làm nhé: Gthiệu tg, tp,...)
TB:
a. Về Nghệ Thuật:
- Hình ảnh thơ vừa quen thuộc, vừa ấn tượng, vừa tiêu biểu cho mùa hè, vừa dạt dào sức sống:
+ Lúa chiêm đang chín...
+ Trái cây ngọt dần...
+ ...


- Thể thơ lục bát -> Cảm xúc tự nhiên

- Giọng điệu: nhẹ nhàng, tươi vui, háo hức -> Vẽ nên 1 bức tranh mùa hè tươi sáng, náo nhiệt, thoáng đãng trong tâm trí người tù

- Hoán dụ: Tiếng chim tu hú là tín hiệu của mùa hè

- Cách sử dụng từ ngữ khéo léo để diễn tả các trạng thái sự vật đang diễn ra, như đang cựa mình lớn lên ấy ^^
( Bạn chỉ ra các từ ấy nhé: đương (chín), (ngọt) dần , lộn nhào

b. Về Nội dung ( Cái này đừng trọng tâm quá là "bay" sang đề khác đấy ^^)

6 câu thơ này đơn giản chỉ là một thế giới mùa hè rực rỡ sắc màu, rộn ràng âm thanh,...( gì gì đó), nhưng đặc biệt và hay ở chỗ nó được sáng tạo qua tâm tưởng một người tù đang phải sống trong một cuộc sống tối tăm, ngột ngạt, đau đớn, không thể tiếp xúc được với thế giới bên ngoài -> Cho thấy khát khao tự do cháy bỏng ntn?

( Viết vậy là được, đừng viết thêm nhé)

c. Tác giả:

- Có sự cảm nhận tinh tế

- Có tâm hồn trẻ trung, yêu đời

- Có khao khát tự do, cháy bỏng


d. Đánh giá

KB: Khổ thơ gợi lên cho bạn điều gì?

Hay quá, tớ cám ơn mọi người nhiều nhiều nhé :khi (110):
 
R

ronaldover7

Câu 1
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Hai câu thơ mở bài như một lời giới thiệu của tác
giả về làng quê miền biển của mình. Nó là một làng
quê nằm ăn sát ra biển, bốn bề quanh năm sóng vỗ.
Qua hai câu mở bài này, tác giả còn muốn giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở quê
mình, đó là nghề ngư nghiệp. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm
tình của Tế Hanh, nói về công việc thường nhật xảy
ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật
trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh
niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm,
tiến ra biển cả. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng
những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt”
và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ”
với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại
được sử dụng. “Cánh buồm” được so sánh với
“mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn
tiềm tàng trong con người Tế Hanh. Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn,
bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự
hào của cánh buồm vi vu trong gió biển. Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ,
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm. Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Tám câu thơ tiếp theo này thể hiện hình ảnh làng
chài khi những chiếc thuyền cá trở về sau những
ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui
sướng biết bao khi những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài
lưới mang một màu da thật riêng, có một mùi
hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những người yêu
quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh
mới có thể cảm nhận được. Chiếc thuyền cũng mệt
mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được
tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo! Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ:
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Khi viết bài thơ này, tác giả đang ở xa quê hương.
Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ
những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con
thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn
nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà. Kết lại, với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài
thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức
tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền
biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy
sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao
động làng chài. Bài thơ còn cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.
Nguồn : vanmau.com
 
Top Bottom