ngữ văn 7

Y

yenngay

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Em học *** văn lắm, các anh chị ai giỏi văn giúp em với. Đề bài như sau:
Bài 1:Nêu cảm nhận của em về 1 bài ca dao mà em thích nhất trong chùm ca dao về tình yêu quê hương, đất nước, con người.
bài 2:Nêu cảm nhận của em về một văn bản nhật dụng mà em đã học (chỉ trong chương trình ngữ văn 7)?
Ai làm được em sẽ thanks nhiều giúp em nhanh với nhé chiều nay phải nộp rùi.
:((^:)^:khi (15):
 
N

namnam6a3

Thần thoại Hy - Lạp kể cho chúng ta về vị thần tình yêu Eros với đôi cánh thiên thần và hai túi đựng mũi tên. Chàng ban phát tình yêu cho nhân loại bằng cách bắn các mũi tên vào trái tim của mỗi người. Nếu người nào bị "trúng thương" bởi mũi tên chàng rút từ túi bên phải thì sẽ có được tình yêu hoàn hảo, ngọt ngào. Còn nếu người nào không may bị "trúng thương" bỡi mũi tên chàng rút ra từ túi bên trái thì sẽ gặp sự đau khổ trong tình yêu. Có lẽ, vì thế tình yêu không chỉ có lãng mạn, ngọt ngào mà còn có cả những “trái đắng” xót xa. Từ thực tế đó, người nghệ sỹ dân gian xưa đã thốt lên câu hát:



- Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay

- Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như cá cắn câu

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra ?

Rất nhẹ nhàng, tinh tế nhưng cũng thật nặng trĩu tâm sự nuối tiếc xót xa. Bài ca dao với năm cặp lục bát ngắn gọn, nhưng lại là một câu chuyện dài về một tình yêu dang dở, với những nỗi khổ đau, nuối tiếc trong tình cảnh éo le của những con người trong cuộc.

Nhân vật trữ tình xuất hiện trong bài ca dao là chàng trai và cô gái. Bài ca dao là tình cảnh và tâm trạng thực tại, có lẽ là kết quả của một "tiền giả định" mà tác giả dân gian không muốn nói đến trong bài ca dao. Ở đây, có thể có ba giả thiết về “tiền giả định” đó. Có thể là chàng trai và cô gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau; cũng có thể là chàng trai thầm yêu cô gái nhưng chưa có dịp thổ lộ thì cô gái đã đi lấy chồng; và cũng có thể chàng trai và cô gái gặp nhau, mến nhau nhưng đã muộn màng. Dù hiểu theo cách nào thì bài ca dao cũng có cái lý riêng của nó nhưng phù hợp nhất có lẽ là giả thiết thứ nhất. Chàng trai và cô gái yêu nhau nhưng vì một lý do nào đó mà họ không lấy được nhau, cô gái phải đi lấy chồng.

Bài ca dao như là một sự tương ngộ của những "người xưa" và "tình xưa" trong sự buồn đau, nối tiếc muộn màng.

Bốn câu đầu là lời của chàng trai:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay

Đọc bốn câu ca dao trên ta nghe vang vọng đâu đây cái âm hưởng của những câu ca dao:

... Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở

Anh đến bến đò đò đã sang sông

Anh đến tìm em thì em đã có chồng......

Cũng là "hoa" đã nở, cũng là "em" đã lấy chồng, cũng là chỉ còn lại mình "anh" bơ vơ trong nỗi cô đơn tuyệt vọng. Nhưng tâm trạng của chàng trai trong ba câu ca dao này là một tâm trạng cụ thể, xác định về một sự gặp gỡ muộn màng. Còn tâm trạng chàng trai trong bài ca dao của chúng ta thì lại là tâm trạng của một người đã yêu và được yêu nhưng phải xót xa nhìn cảnh "người yêu đi lấy chồng". Vì thế tâm trạng ấy càng đau khổ và xót xa hơn.

Những câu thơ đọc lên ta cảm giác có cái gì đó rất vô lý. Tại sao lại trèo lên cây bưởi mà hái hoa? rồi lại bước một cách dễ dàng xuống vườn cà? giữa vườn cà lại có nụ tầm xuân? Và nghịch lý hơn nữa là nụ tầm xuân lại có màu xanh biếc!

Nhưng cái hay, cái độc đáo của bài ca dao là ở chỗ đó. Từ cái tưởng chừng như vô lý nhưng lại trở nên rất hợp lý. Nó vô lý bởi lẽ tự nhiên nhưng lại hợp lý với lòng người. Dường như cái hành động "trèo lên", "bước xuống" ấy là hành động của vô thức, thể hiện tâm trạng rối bời của chàng trai. Và cái sắc màu "xanh biếc" ấy không còn là sắc màu thật nữa mà đó là sắc màu của ảo giác, sắc màu của tâm trạng. Nó không còn là sắc hồng thắm thiết của những tâm trạng đang yêu, mà giờ đây tất cả như đã biến sắc đổi hình.

Cách gieo vần trắc ("iếc" - biếc/tiếc) như xoáy sâu vào sự nối tiếc muộn màng của chàng trai, và sự đau khổ đến tột cùng.

Nếu như bốn câu đầu là lời của chàng trai, là tâm trạng rối bời, nối tiếc thì bốn câu cuối là lời của cô gái với sự trách móc về sự chậm trễ và thiếu chủ động của chàng trai.

"Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không"

Cách sử biện pháp đối lập các cụm từ "ba đồng", "một mớ"rất độc đáo. “Ba đồng” thì đã rõ, nhưng còn “một mớ” là bao nhiêu thì không xác định, chỉ biết rằng đó là một số lượng rất nhiều. Thông qua sự đối lập ấy, tác giả cho ta thấy giá trầu không càng rẻ thì lỗi của chàng trai càng lớn. Tuy nhiên, sự tinh tế của câu ca dao không phải là nói chuyện trầu mà là chuyện chàng trai nghèo, không đủ bản lĩnh để hỏi cưới nàng về làm vợ, khi mà người con gái không tự quyết được hôn nhân của mình.

Thông thường ca dao khi nói đến sự đau khổ trong tình yêu, thì nói đến sự phụ tình bạc ngĩa.

"Trách người quân tử bạc tình

Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao"

Hay: "Anh tưởng giếng nước sâu

Anh nối sợi gầu dài

Ai ngờ giếng cạn

Anh tiếc hoài sợi dây"

Và có khi là: " Tiếc công anh xe chỉ uốn cần

Bỡi chưng biển động con cá lồng ra khơi"

Nhưng không hề có chuyện phụ tình trong bài ca dao này. Bởi vậy ta càng quý trọng biết bao nhiêu những tình yêu thủy chung, son sắt. Như vậy mặc dù không lấy được nhau, nhưng trái tim họ thấu hiểu và cảm thông cho nhau.

Hai hình ảnh so sánh: Như chim vào lồng; như cá cắn câu được sử dụng vừa lặp lại, vừa đảo ngược như nhấn mạnh sự tù túng, bế tắc không thể thay đổi được nữa. Sự thực hiện tại là cô gái đã có chồng và cô phải làm trọn cái bổn phận làm vợ, làm mẹ của mình.

Câu hỏi: "Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra ?"

thốt lên như một sự phản kháng, bất lực vì đã bị ràng buộc trong nghĩa vụ với gia đình. Phải chăng đó cũng là sự hy sinh thầm lặng của cô gái ? Về phương diện này, bài ca dao thể hiện được một khát vọng mãnh liệt về tình yêu chân chính. Đó cũng là lời tố cáo mãnh liệt những ràng buộc khắt khe của chế độ phong kiến.

Từ tâm trạng rối bời, nối tiếc của chàng trai và sự khổ đau trước thực tại trái ngang của cô gái. Bài ca dao kết thúc bằng một câu hỏi bỏ ngỏ, dở dang như chính cuộc tình của chàng trai và cô gái vậy.

Bài ca dao kết thúc với biết bao dư vị xốn xang. Tôi thiết nghĩ: Giá như tất cả những mũi tên của thần Eros chỉ nằm ở túi bên phải và giá như tất cả mọi người trên thế gian này đều được “trúng thương” bởi mũi tên của thần Eros và có được một tình yêu ngọt ngào và hạnh phúc. Nhưng dường như cuộc sống là vậy: Có đau khổ mới có hạnh phúc, có xót xa nuối tiếc ta mới quý trọng hơn những điều ta có hôm nay.


:)|ngủ
 
N

namnam6a3

Cảm nhận về bài ca dao "Khăn thương nhớ ai"

Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật, là “thơ của vạn nhà”, là tấm gương soi cho tâm hồn và đời sống dân tộc, là niềm tự hào khôn xiết về cái cách mà những con người lao động Việt Nam trực tiếp bày tỏ long mình mà không cần nhờ đến bất kì một khuôn khổ thơ chính quy nào. Họ gửi gắm vào đó là yêu thương, sướng vui, đau khổ; là hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi… Không nằm ngoài chuỗi sáng tác mang đề tài thương nhớ làm nên bản sắc văn hoá dân gian, bài ca dao được nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”, “ Khăn thương nhớ ai” cũng trĩu nặng niềm thương nỗi nhớ của người con gái đang yêu, sâu lắng và hay lạ lùng…:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.”

Ca dao về nỗi nhớ là hợp âm các nốt trầm lắng đọng lòng người trong cung bậc tình yêu - vốn là đề tài muôn thưở và quen thuộc của người bình dân. Nỗi nhớ nhung nào có buông tha một ai? Mọi cảnh huồng, mọi số phận, mọi trang lứa; và nó nhẫn tâm bủa vây, bám víu lấy người con gái đơn chiếc. Nỗi nhớ ấy như muốn thiêu đốt tan chảy cả cõi lòng nhưng lại được che giấu kín đáo và ý nhị, không bộc lộ một cách buông tuồng, suồng sã. Tâm trạng nàng, biết tỏ cùng ai? Những câu hỏi không có câu trả lời, cô dành để hỏi những vật dụng quen thuộc nhất kề bên mình trong lúc cô đơn :

“Khăn thương nhớ ai?...
... Đèn thương nhớ ai?”

Những câu hỏi cất lên rồi lại trôi dạt mãi vào hư vô im tiếng, cứ nén chặt niềm thương nỗi nhớ trong lòng, để rồi chực trào tuôn ra thành tiếng thở dài triền miên. Cái khăn được hỏi đến đầu tiên và cũng được hỏi nhiều nhất’ cô gái hỏi vật trao duyên mang ý nghĩa thiêng liêng duy nhất của mình. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ biết bao hơi ấm bàn tay, đã thấm đượm nhiều vô chừng những lời ân ái mặn nồng :

“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”

Giờ người đã xa, hơi ấm nồng đượm vương vấn nơi đây âu chỉ là nỗi buồn chờ đợi quá khứ, cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rông trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà quanh quẩn trong tâm trí trăm mối tơ vò, khiến vật chứng nhân vô trí vô giác cũng động lòng mà:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.”

Ba hình ảnh đặc trưng cộng hưởng thêm ba câu thơ láy cô gái tự nhân hoá chiếc khăn lên rồi hỏi: “Khăn thương nhớ ai?”, cùng lối vắt dòng láy tổng cộng sáu lần từ “khăn” thành một điệp khúc tạo cảm giác dường như nỗi nhớ càng thêm triền miên. Mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ kia thêm trào dâng cuồn cuộn trong lòng. Ôi, sầu đong càng lắc càng đầy! Cô gái đang hỏi chiếc khăn trao duyên hay đang đối thoại với bản thân mình đây? Đằng sau nghệ thuật đảo thanh đầu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều, đằng sau hết thảy các sử “xuống- lên”, “rơi- vắt” của khăn hiện lên hình ảnh một con người rất rõ, con người ấy đang tiếc nhớ khôn nguôi về mối tình đẹp đẽ. Nhớ đến mức không còn tự chủ được dáng đứng bước đi, không thề đứng yên ngồi ổn được, cứ thất thểu ra vào, bởi vậy người ta mới có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Nỗi nhớ cứ rừng rực trong lòng, len lỏi vào từng dòng máu thớ thịt, thế mà vẫn không đủ để cản ngăn dòng nước mắt khóc thầm:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”

Nước mắt em rơi từ khoé lệ u sầu, rơi trên tiếng cười đùa hôm qua, và rơi trên u buồn hôm nay, những “ hai hàng nước mắt đầm đàm như mưa: làm khổ em biết bao nhiêu đêm dài. Nỗi nhớ sâu trong tâm hồn réo thúc bùng sôi nhưng được bộc lộ ý nhị, nọt ngào, mang màu sắc nữ tính, nhẹ nhàng. Cô gái trong bài ca dao là một con người biết trân trọng những kỉ niệm, biết ghìm nén lòng mình, dẫu cho trái tim đã băng hoại vì nỗi buồn man mác gậm nhấm lủi tàn mất rồi. Cái khăn đã giãi bày hộ cô gái cái nghẹn ngào đọng mãi trong lòng không nói ra được. Cái thứ cảm gáic không gọi được tên nặng trĩu trong lòng là thế, vậy mà cứ nhẹ tênh lan toả rộng khắp, thấm đượm vào không gian, vào cả sự đồng cảm nơi người đọc...

Nhưng không chỉ có thế, nỗi nhớ ở đây còn được đong đếm theo bước chân thời gian chứ không chỉ thăng trầm theo từng bước đi của nhân vật. Ban đêm là thời khắc để bất kì con người nào cũng có thể suy ngẫm về người, về đời, rất thật. Đối với cô gái, đó là lúc niềm khắc khoải lại càng làm tim cô đau nhói. Niềm đau ở đây được diễn tả theo một cách riêng, nhất quán và không thể nhầm lẫn. Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại trọn vẹn còn tâm sự được gửi gắm tiếp vào ngọn đèn đêm:

“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt”

Cả bài ca dao là một hệ thống các câu hát lẻ độc lập: khi đứng riêng chúng hoàn toàn có thể diễn đạt hết nghĩa, còn khi ghép chúng lại với nau, chúng thu hút người đọc và nỗi lòng trải rộng mãi hết không gian rồi lại sang thời gian. Trong sự ưu phiền vò võ của đêm khuya khắc vợi canh tàn, trong bóng đêm mịt mù đến hốt hoảng, đốm lửa ấm dù nhỏ nhoi trên đầu ngọn bấc kia chứng tỏ người thắp đèn vẫn chưa tài nào ngủ yên được. Cô gái gửi tâm tình ngổn ngang trăm mối những đêm thâu trằn trọc vào ngọn lửa nhỏ, hay chính ngọn lửa tình bất diệt luôn cháy mãi trong tâm can? Chừng nào lửa tình vẫn cháy thì chừng ấy lửa đèn kia tắt làm sao được. Vẫn là câu hỏi không có lời đáp, và vẫn là hình ảnh tượng trưng được nhân hoá, “ngọn đèn” cũng biết thổ lộ bao điều, buộc ta phải rung cảm suy nghĩ nhiều hơn, sâu sắc hơn những điều được đề cập trong lời ca da diết.


Bày tỏ, giãi bày hộ cô gái bằng giá trị tượng trưng rất biểu cảm theo lối nói vòng đầy cuốn hút, nhưng rồi rốt cuộc “khăn” và” đèn”cũng chỉ là cách nói gáin tiếp thông qua biện pháp nhân hoá. Đến dòng thơ thứ chín, không kìm lòng được nữa, thứ “cảm xúc không gọi được tên” trên kia chực vỡ oà, cô tự hỏi chính mình:

“Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.”

Hình tượng các nghệ nhân dân gian sử dụng thật hợp tình hợp lý, nhất quán và xuyên suốt: “đèn chẳng tắt” vì “mắt không yên”, “mắt không yên” nên “đèn chẳng tắt”. Nỗi ưu tư còn nặng trĩu, khối tinh thần bất biến vẫn vẹn nguyên, tình yêu chung thuỷ chẳng đổi dời. Cứ khép đôi bờ mi đẫm lệ, hình bóng người thương lại hiện về, giấc ngủ dẫu có cũng vô cùng ngắn ngủi và mãi chập chờn những giấc vơ vô ảo vô thực. Năm lần hỏi, năm lần điệp từ “ai” vang lên thổn thức xoày vào lòng ta một nỗi niềm khắc khoải, đồg cảm bi ai. Bản thân từ “ai” mang ý phiếm chỉ, nên câu trả lời thực chất được khẳng địh ngay từn câu hỏi tưởng như không có lời đáp. Cách khẳng định này không được diễn đạt bằng ý chính mà mang tính nghệ thuật, thi vị hơn, mạnh mẽ hơn. Dẫu vậy, với tính chấ nghệ thuật rất riêng của văn học dân gian, chẳng mấy ai yêu quý bài ca dao này không tự lý giải được, rằng không ai khác ngoài chàng trai đã gây nên nỗi lòng cô đọng trong điệp từ “ ai” kia. Mười câu thơ bốn chữ còn hay về cách gieo vần: vần chân xen lẽ vần lưng, trong đó thanh bằng và thanh trắt lại xoắn quýt lấy nhhau tạn nên âm điệu luyến láy liên hoàn, bâng khuâng mãi. Và nếu cứ đi theo cung cách cấu tứ như thế, lòng cứ tự hỏi lòng, thì bài ca dao sẽ trải dài cùng nỗi sầu đến vô tận. Lần theo mạch xúc cảm xuyên suốt, qua tới mấy lần hỏi, điểm cao trào bất chợt xuất hiện đột ngột dưới hình thức câu tho8 lục bát, biến nỗi nhớ nhung dằng dặc kia thành:

“Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”

Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập và gây rung động lạ kỳ chuyển sang lục bát nhẹ nhàng và xao xuyến, bởi lẽ, cô gái một mực thương nhớ người yêu vẫn biết lo lắng cho số phận trái ngang của mình. Cô nhớ lắm, đến nỗi:

“Qua cầu dừng bước trơng cầu
Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu”

Guồng quay cuộc sống thì cứ mãi lừng lững tiến về phía trước, hoàn cảnh trớ trêu không cho phép người con gái đơn thân mãi “ Thương thương nhớ nhớ sầu sầu”, xã hội không đồng ý để cô “Một ngày ba bận ra cầu đứng trông” . Từ “lo” được lặp lại đến hai lần, cùng chỉ từ số nhiều “những” chứng tỏ trong lòng cô gái đang có nhiều lo sợ mênh mông khi nghĩ về người mình yêu cùng một lúc; nhói cả tim khi nghĩ rằng anh sẽ thay đổi, sẽ như” vầng mây bạc giữa trời mau tan”; quặn cả lòng khi hay cả một xã hội phong kiến thối nát đang chực chờ ép duyên... Hạnh phúc quá mong manh và cái quyền tự do yêu đương cũng thật là bấp bênh, khi tình yêu tha thiết chân chính luôn bị nỗi sợ nơm nớp vô biên lấn át, “Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời”. Nỗi lo phiền trĩu nặng tâm can, xuất phát từ chính nỗi nhớ thươngkho6n nguôi, từ khát vọng yêu và được yêu, từ sự bức bối muốn được vùng dậy giải thoát. Tình yêu, nỗi nhớ nơi con tim mồ côi và nguội lạnh vẫn cứ chan chưa tình người, dạt dào sức sống mà không hề bị luỵ, đau thương, yếu hèn. Càng yêu, càng nhớ thì con người ta càng bộc lộ sự lạc quan trữ tình và chung thuỷ của mình:

“Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em muộn má đào em phai”

Để diễn tả được hết nỗi long cũng như tính nhân văn sâu sắc, bài ca dao mang những yếu tố thi pháp và biện pháp nghệ thuật quen thuộc: điệp từ, điệp ngữ gây cảm giác quyến luyến mà dồn dập; dùng hình ảnh tượng trưng và nhân hoá chúng đạt hiệu quả cao. Quan trọng hơn cả, ẩn chưa trong toàn bài ca dao là nét đẹp kín đáo, thu hút, đằm thắm nữ tính; khá đặc biệt so với các khúc ca thương nhớ khác dung hình thức biểu đạt trực tiếp…:

“Nhớ ai hết đứng lại ngồi,
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.”

“Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

...Vì thế, “Khăn thương nhớ ai” luôn có một chỗ đứng nhất định trong ca dao nỗi nhớ nói riêng , toàn bộ kho tàng văn học dân gian nói chung và một vị trí riêng trong lòng người đọc. Vượt chặng đường “những mấy nghìn năm”, bài ca dao sẽ mãi là viên ngọc long lanh, tuy hình thành từ bàn tay thô kệch nhưng được gọt giũa bởi tấm lòng và tâm hồn đẹp đẽ cao quý của người bình dân Việt Nam.



ngủ:)|
 
Top Bottom