[Ngữ Văn 11]Thương vợ

N

nguyenhanhnt2012

Tham khảo

Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo

- Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo
“quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầu chợ, bến đò, buôn
thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao.
Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là
quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ
quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là
đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anh
dận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh.

- Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” - thân
phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi,
bà Tú thì lặn lội… khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến,
cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm
bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ
trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng,
gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.

- Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và
“năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám
quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số
phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ
trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói
lên đức hy sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:

“Một duyên hai nợ/âu đành phận,

Năm nắng mười mưa/dám quản công”.

Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của
bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo
toan cho hạnh phúc chồng con. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nểtrọng.

Nỗi niềm nhà thơ

- Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng
vừa phẫn nộ: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở
Tây dở ta, nửa phong kiến nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo
điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ở bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng
giúp được ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ
ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú - Con tập tểnh đi bộ - Khách hỏi nhà ông đến
- Nhà ông đã bán rồi”.

- Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được
rung động và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như không”. “Như không”
gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với
nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!
 
Top Bottom