câu 1 đọc và trả lời câu hỏi :
"thân em như tấm lụa đào
phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."
a,khái quát nội dung của bài ca dao.
b,chỉ rõ phương thức biểu đạt chủ yếu của bài ca dao
c,tìm và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ từ vựng trong bài ca dao.
d,từ ý nghĩa của bài ca dao trên, anh [chị] hãy viết đoạn văn ngắn [10->15 dòng] trình bày suy nghĩ của bản thân về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ việt nam trong xã hội ngày nay.
câu 2
cảm nhận của anh [chị] về vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn thơ Nguyễn Trãi qua bài thơ "cảnh ngày hè"-Bảo kính cảnh giới -bài 43
a,khái quát nội dung của bài ca dao.
- Đây là lời than chan chứa đầy nước mắt của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng không được tự mình quyết định số phận.
-Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.
c,tìm và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ từ vựng trong bài ca dao.
>>>Tác giả đã so sánh " thân em " với "dải lụa đào " . Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu.
Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc.
d,từ ý nghĩa của bài ca dao trên, anh [chị] hãy viết đoạn văn ngắn [10->15 dòng] trình bày suy nghĩ của bản thân về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ việt nam trong xã hội ngày nay.
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lòi than thân buồn tủi:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.
Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; Thân em, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của ngưòi phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất ngưòi phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng ngưòi phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cồ' định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, ngưòi phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn 'trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.
Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thòi phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có
sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho sô" phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ ngưòi này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Ngưòi phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Sô" phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:
Ví đây đôi phận làm trai được.
Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?
Câu 2
cảm nhận của anh [chị] về vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn thơ Nguyễn Trãi qua bài thơ "cảnh ngày hè"-Bảo kính cảnh giới -bài 43
Nguyễn Trãi là nhà thơ kiệt xuất của dân tộc ta.Những tác phẩm của ông luôn lưu ấn trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai về một hồn thơ mang phong cách rất riêng biệt. " Cảnh ngày hè" là một trong số những tác phẩm đặc sắc đó. Bài thơ là nỗi lòng của một nghệ sĩ, một thi nhân yêu thiên nhiê, yêu cuộc đời, yêu cuộc sống luôn khát vọng một cuộc sống thái bình cho nhân dân. Những câu thơ đầu tiên,tác giả đã làm nổi bật lên bức tranh ngày hè tràn ngập sắc rực rỡ. Màu xanh mát của hoa hòe-hòe lục kết hợp với sắc đỏ của những quả lựu chín-hạch lưu cùng với ánh hồng của những đóa sen - hồng liên, hòa hợp với nhau lung linh trong nắng chiều vàng rực rỡ. Bức tranh ấy có sự hài hòa về màu sắc và cả âm thanh, mùi vị. Tác giả đã sử dụng cả thị giác, thính giác, vị giác để cảm nhận cảnh vật xung quanh mình.Những từ ngữ "đùn đùn", "giương", "phun", "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ của tác giả: " Dẽ có Ngu cẩm đàn một tiếng/ Dân giàu dủ khắp đòi phương". Hai câu thơ cuối cho ta hiểu tấm lòng của Nguyễn Trãi muốn có cây đàn của vua Thuấn để gảy lên khúc ca sự no ấm, thái bình của người dân. Ông là người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho dân, cho đất nước. Nhìn thấy dân làng chài trong cảnh yên vui cũng đủ khiến ông yên lòng. Âm điệu những câu thơ lục ngôn ( sáu chữ) kết thúc bài thơ khác âm điệu những câu thơ thất ngôn ( bảy chữ) ở chỗ nó như dồn nén trong câu chữ những tính cảm của ông dành cho nhân dân. Ông ước mơ người dân đất nước ta có cuộc sống no đủ sum vầy hạnh phúc, ấm êm. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiê, yêu đời, một tấm lòng luôn hướng về quê hương, nhân dân, đất nước.
- Nguồn : GG
- Chúc bạn học tốt ! -
http://loigiaihay.com/cam-nhan-ve-c...-biet-vao-tay-ai-c37a23525.html#ixzz50ZqDegB6