[Ngữ văn 10] Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

D

doraemon9x000

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1/ Nghị luận về 8 câu thơ đầu trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
2/ Nghị luận về 8 câu thơ giữa I trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
3/ Nghị luận về 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
4/ Nghị luận về 8 câu thơ giữa II trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.

Tương tự với "Trao Duyên" và "Chí khí anh hùng". Nghị luận từng đoạn trong bài thơ.

Anh em cố gắng giúp nha! Gần thi rùi!
 
H

hochoidieuhay

1/ Nghị luận về 8 câu thơ đầu trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
2/ Nghị luận về 8 câu thơ giữa I trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
3/ Nghị luận về 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
4/ Nghị luận về 8 câu thơ giữa II trong đoạn trích Tình Cảnh Lẽ Loi Của Người Chinh Phụ.
Anh em cố gắng giúp nha! Gần thi rùi!


Câu 1:Nghị luận về 8 câu thơ đầu trong đoạn trích ''Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ''

Mở bài: Giới thiệu về bài thơ.

Thân bài: phân tích về 8 câu thơ đầu:
''Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.''
-Mở đầu đoạn trích thấy hiện rõ lên khung cảnh vắng buồn, lặng thầm một mình của người chinh phụ''hiên vắng thầm gieo'' bước đi ngoài hiên.Sự lẻ loi, cô đơn, buồn bã với hành động''rủ thác đòi phen'' buông lên buông xuống nhiều lần mà không có mục đích...
''Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?''
-Người chinh phụ đang mong chờ, ở phía ngoài rèm sao con chim thước''chẳng mách tin'', con chim thước đó là chim khách, được coi là loài chim báo tin lành-có khách dến, người đi xa trở về, người chinh phụ đang chờ tin của chồng.''Trong rèm'' người chinh phụ ngồi bêb ánh đèn hỏi ''có đèn biết chăng?'', rằng đèn có hiểu được tâm tư mà người chinh phụ đang lo lắng, chờ đợi không?...
''Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.''
-Dẫu đèn có hiểu được tâm sự của nàng thì cũng''dường bằng chẳng biết'' vì không thể chia sẻ cùng được. Mà tâm tư, nỗi lòng của nàng, chỉ ''riêng bi thiếp mà thôi'' một mình nàng hiểu rõ mà thôi....
''Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.''
-Nỗi buồn sao mà sầu nặng khiến cho nàng''chẳng nói nên lời'' vì nhớ chồng, nàng ngồi nhìn đầu bấc đèn dầu đã cháy thành than nhưng lại được ngọn lửa nung đỏ lên trông như hoa, làm lòng nàng lại càng nhớ về chồng hơn''bóng người khá thương''....
...........
* Làm rõ nghệ thuật trong 8 câu thơ đầu:
-Miêu tả bằng những hình ảnh cụ thể mà thể hiện nỗi cô đơn, buồn khổ, khắc khoải, chờ đợi, hi vọng, day dứt không yên của người chinh phụ:hiên vắng, rủ thác, con chim thước, đèn,.....

Kết bài: đi khẳng định lại một lần nữa của 8 câu đầu: Nỗi cô đơn của người chinh phụ....Và nêu lên cảm nhận...




Câu 2:Nghị luận về 8 câu thơ giữa I trong đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Mở bài: giới thiệu về 8 câu thơ giữa I

Thân bài: nghị luận 8 câu thơ giữa I
''Gà eo óc gáy năm sương trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.''
-Tiếng gà cất lên nghe não nề, buồn''eo óc'', người chinh phụ đã thao thức cả đêm day dứt không ngủ''năm trống''.......... Hình ảnh cây hòe''rủ bóng'' sà xuống, sức sống không có mà tiều tụy đó ẩn hình ảnh của người chinh phụ....
''Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.''
-Một giờ dài lê thê làm co nỗi buồn càng não nề''khắc giờ đằng đẵng'' kèm theo nỗi sâu triền miên không bao giờ ngớt''mối sầu dằng dặc''.....
"Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.''
-Người chinh phụ đang cầu mong cho người chồng ở nơi xa được bình an nên đã đốt hương cầu mong, ''hương gượng đốt'' cho tâm hòn thanh thản nhưng đốt xong thấy buồn.Những sở thích của người con gái nay cũng cảm thấy ngượng ngùng, có cái gì đó buồn não nề''gương gượng soi'' soi thấy mình buồn chán, càng soi mà giọt ''lệ lại châu chan'' cứ tuôn trào ra.''Sắt cầm'' đàn cầm và đàn sắt gảy hòa âm với nhau, được dùng để ví cảnh vợ chồng hòa thuận,''gượng gảy'' đàn sắt đàn cầm vì người chinh phụ đang trong cảnh cô đơn.''Dây uyên kinh đứt'' người chinh phụ sợ làm đứt dây đàn uyên ương vì có thể báo hiệu điều không may của tình cảm vợ chồng, ''phím loan ngại chùng'' sợ dây đàn chùng là điềm gỡ, gợi nên sự không may mắn của lứa đôi đang xa nhau....
.......
*Nghệ thuật được sử dụng trong 8 câu thơ này:Bút pháp tả cảnh ngũ tình.....
''Người buồn cảnh cũng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.''
''Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.''

Kết bài:Cảm nhận về 8 câu thơ này....




Câu 3: Nghị luận về 8 câu thơ cuối trong đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Mở bài: giới thiều về 8 câu thơ cuối

Thân bài: nghị luận về 8 câu thơ cuối:
''Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng gửi đến non Yên.''
-Nỗi nhớ thương của người chinh phụ luôn hướng gửi tới chồng, nhờ''gió đông'' hãy đưa tới chồng, rằng tấm lòng được ví như ''nghìn vàng'' gửi đến ''non Yên'' nơi mà người chồng đang chinh chiến.
''Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.''
-Nơi đó rất xa không đến được''chẳng tới miền'', nỗi nhớ nhiều, dài, lâu ''nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời''......
''Trời tham thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.''
-Trời có hiểu được tấm lòng của người chinh phụ không? trời xa không hề hiểu được''khôn thấu'', nỗi nhớ đó''đau đáu'' không biết khi nào mới hết, người chồng nơi chiến trường có nào hay biết điều này?........
''Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.''
-Hai câu cuối nói cảnh buồn nhưng thực tâm trạng buồn của người chinh phụ, người và cảnh có nỗi niềm càng sâu hơn.Nỗi buồn sâu''thiết tha lòng'' thì khao khát hạnh phúc càng bấy nhiêu....

*Nghệ thuật ở đây sự dụng nói quá, so sánh nỗi nhớ của người chinh phụ: Nghìn vàng, nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời,....

Kết bài:Nêu lên cảm nhận về những câu thơ cuối của đoạn trích chính là nỗi nhớ chồng khi người chồng đi chinh chiến.......



*Nghị luận về đoạn trích ''Trao Duyên'', bạn tham khảo ở đây:http://diendan.hocmai.vn/showthread.php?t=301856









 
L

lamnun_98

Cảm nhận của em về 12 câu thơ đầu trong đoạn trích "Trao duyên" (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)


Đại thi hào Nguyễn Du (1765-· 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.

Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!

Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…

Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.

Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.

Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.

Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”

kiếp số của họ:

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Hay như Mộng Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy", quả thật không ngoa chút nào!

Tác giả: Phạm Thị Hạnh Dung, lớp 10 C5 (Năm học 2010-2011) Trường THPT Phú Nhuận​
Nguồn tin: Sưu tầm​
 
Q

quynhhuong_baby

Có thể làm giúp cái dàn ý ngắn gọn không ạ??? Cảm ơn trước. :-SS
 
Top Bottom