[ Ngữ văn 10 ] Bài viết số 1

N

nhocsama_98

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

câu 1 : viết 1 đoạn văn về 1 số nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam.
Câu 2: viết bài văn tả quang cảnh nhà tù trưởng Đăm Săn sau khi chiến thắng Mtao Mxây


Chú ý tiêu đề!
[Lớp] + Nội dung
Baby!
Đã sửa!
 
Last edited by a moderator:
A

anhvippro1209

Cau 1
Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân tộc Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.
Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có một nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.
Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính chất trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như một "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau một thời gian dài văn-sử-triết bất phân. Ba dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất cận nhân tình.
Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể - tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:
Vận văn: tức loại văn có vần
Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)
Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.
Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà Chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.
Từ khi có việc truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam thì diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông thì sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học Trung đại và Văn học Hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:
Thời kỳ văn học Trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
Thời kỳ văn học Hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.

BAN CHON 1 DOAN NHA
 
A

anhvippro1209

Câu 2
Ở phần thứ nhất, tác giả tập trung vào miêu tả trận đánh giữa ĐS và Mtao Mxây. Sở dĩ xảy ra cuộc chiến này là do Mtao Mxây (tù trưởng Sắt) đã cướp Hơ- Nhị - vợ của Đăm Săn. Đối với người Ê-Đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục của cả cộng đồng. “chiến thắng Mtao Mxây” là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ, vì danh dự của bản thân và bộ tộc, vì hạnh phúc gia đình cũng như của cả buôn làng và cũng là để chứng tỏ sự hùng mạnh của mình. Chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và cũng có sức mạnh phi thường không kém. Hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích cho thấy rõ sự tương phản giữa Đam Săn với kẻ thù, làm nổi bật lên sự hào hùng của chàng và sự thảm hại Mtao Mxây.

Vẻ đẹp của Đam Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của Mtao Mxây. Nếu như Mtao Mxây đớn hèn lừa lúc Đăm Săn không có nhà đến bắt Hơ- Nhị và cướp phá buôn làng của chàng thì Đăm Săn hoàn toàn ngược lại. Chàng tiến đánh kẻ thù một cách quang minh chính đại với tư thế đường hoàng, sự dũng cảm và bản lĩnh vô song. Bước vào lãnh địa của Mtao Mxây, chàng dõng dạc, đường hoàng tới tận chân cầu thang nhà kẻ thù mà khiêu chiến: “Ơ diêng! Ta thách nhà ngươi xuống đây đọ đao với ta đấy”. Trước thái độ trêu ngươi trọc tức của Mtao Mxây, chàng đã thẳng thắn tuyên bố: “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi ... cho mà xem”. Lời nói đầy dũng mãnh đó của chàng làm cho Mtao Mxây hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng phải khiếp sợ dè chừng bước xuống chấp nhận lời thách đấu của Đăm Săn. Phát huy cao độ nghệ thuật so sánh phóng đại, tác giả dân gian đã khắc hoạ khá rõ nét ngoại hình của Mtao Mxây khi hắn bước từ trên nhà sàn xuống: “Hắn đóng một cáu khố sọc ... dày mút”; “khiên hắn...cầu vồng”, đó là chân dung của một con người hung hãn và dữ tợn như một vị thần ác.Nhưng đối lập với bề ngoài dũng mãnh đó, Mtao Mxây thực chất chỉ là một tên đê tiện, đớn hèn. Chưa giáp mặt với Đăm Săn mà hắn đã tỏ ra khiếp nhược: “hắn đi từ nhà trong ra nhà ngoài ... sương sớm.” Lời nói của hắn với chàng lộ ra sự hèn nhát “Ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang đi lắm”. Đáp lại, Đăm Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tinh thần thượng võ của mình: “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi nhỉ? Ngươi xem...nữa là”.

Bước vào cuộc giao đấu, ở hiệp giao đấu thứ nhất, với tinh thần thượng võ, Đăm Săn nhường cho địch thủ quyền chủ động tấn công nhưng Mtao Mxây lại hèn nhát đùn đẩy, đến khi không thể thoái thác được nữa thì hắn buộc phải vung khiên múa tiến tới phía chàng. Mtao Mxây thể hiện rõ sự khoác lác khi tài nghệ của hắn được minh chứng bằng “tiếng khiên kêu ...”, sử dụng biện pháp nghệ thtuật so sánh đậm chất dân gian, tác giả đã cho ta thấy sự bất tài, kém cỏi của Mtao Mxây. Còn Đăn Săn, với bản lĩnh của người anh hùng chiến trận, khi Đăm Săn múa khiên chàng chỉ bình tĩnh đứng xem mà không hề nhúc nhích, chứng kiến tài nghệ kém cỏi của kẻ thù chàng tỏ rõ thái độ khinh thường chế nhạo và dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa khiên độc đáo. Sử dụng nghệ thuật so sánh tăng cấp với các ngữ so sánh liên tiếp, ngôn ngữ sử thi đã khoa trương sức mạnh ấy ngang sức mạnh tự nhiên: “ Đăm Săn rung khiên múa ...phía tây”. Trước sức mạnh phi phàm đó của Đăm Săn, Mtao Mxây hiện lên thật thảm hại, hắn sợ hãi vô cùng, “bước cao bước thấp chạy hết bãi đông sang bãi tây” và vung dao chém lại chàng nhưng chỉ trúng một cái chão cột trâu”.

Lúc này, Mtao Mxây đã đuối sức. Hắn cầu cứu Hơ- Nhị quăng một miếng trầu cho hắn, nhưng Hơ – Nhị đã không quăng miếng trầu đó cho hắn mà lại quăng nó cho Đăm Săn, nhận dược miếng trầu tình yêu từ tay vợ, sức mạnh của Đăm Săn tăng lên gấp bội, chàng lại vung khiên múa đánh đuổi kẻ thù: “chàng múa ... tung bay” Lần múa khiên thứ hai của chàng còn ghê gớm hơn bởi dồn chứa sức mạnh trừng phạt. Đăm Săn đã hoá thành những ngọn gió- bão – lốc. Bước chân, mũi giáo, chiếc khiên, cả thân hình lực lưỡng và khí thế bừng bừng, sôi sục của Đăm Săn đã làm xáo động núi rừng ... Chòi lán đổ, cây cối chết, núi rạn, đồi tranh tung gốc ... Cây giáo thần của Đăm Săn nhằm vào đùi, vào người Mtao Mxây mà phóng tới, mà đâm vào nhưng không thủng. Trận chiến đã lên đến đỉnh điểm khiến Đăm Săn thấm mệt.

Bước sang hiệp giao đấu thứ hai, Đăm Săn vừa chạy, vừa mộng thấy ông trời, rồi được ông trời chỉ dẫn. Sáng tạo nên chi tiết kì ảo thú vị này, tác giả dân gian đã huyền thoại hoá người anh hùng sử thi để ca ngợi của chàng. Việc Đăm Săn được ông trời giúp đỡ không hạ thấp tài năng của chàng mà trái lại càng tăng thêm thanh thế uy danh của Đăm Săn. Nó chứng tỏ cuộc chiến của chàng là cuộc chiến chính nghĩa nên được thần linh trợ giúp. Tuy nhiên, ông trời cũng chỉ là người mách nước còn quyết định vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào hành động trực tiếp của Đăm Săn. Bừng tỉnh sau lời “cố vấn” của ông trời, Đăm Săn càng nhanh nhẹn, quyết liệt và dứt khoát. Nhanh như chớp chàng “chộp ngay ... kẻ địch” khiến cho “cái giáp của MtaoMxây ... loảng xoảng”. Hắn thảm bại, chạy trốn cầu xin Đăm Săn nhưng Đăm Săn không hề khoan nhượng. Chàng kể tội, kết án kẻ thù rồi “đâm phập ... ngoài đường”. Hành động đó của chàng không hề thể hiện Đăm Săn là một kẻ dã man ,khát máu, nó là lối hành xử quen thuộc, thường thấy ở các thủ lĩnh anh hùng thời cổ đại khi kẻ thù xúc phạm tới danh dự, điều thiêng liêng, cao quý nhất của họ.

Phần 02: Tác giả dân gian tập trung miêu tả cuộc đối thoại giữa Đăm Săn với dân làng của Mtao Mxây.

Nếu như trong cuộc chiến đấu với Mtao Mxây, Đăm Săn hiện lên với vẻ đẹp của một anh hùng chiến trận với tài năng và sức mạnh phi thường thì ở phần thứ hai này, vẻ đẹp của chàng là vẻ đẹp của tấm làng cao thượng, vị tha với mục đích chiến đấu nhân văn cao cả.

Là một tù trưởng anh hùng, điều mà Đăm Săn quan tâm tới không chỉ là danh dự của cá nhân, hạnh phúc của gia đình, mà với chàng, điều quan trọng nhất là sự giàu có, phát triển của cộng đồng thị tộc. Vì thế, sau khi giết chết kẻ thù Đăm San không hề có bất cứ hành động nào làm tổn hại tới tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây, không hề có việc chàng trả thù, tàn sát buôn làng của hắn cho hả dạ lòng, hả dạ điều chàng quan tâm duy nhất lúc này là của cải thu được, tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây. Với mong muốn đưa dân làng của Mtao Mxây về hoà nhập với bộ tộc của mình để cùng nhau xây dựng một cộng đồng lớn mạnh, bằng tấm lòng nhân ái, vị tha, Đăm Săn đã chủ động đưa ra lời đề nghị, thuyết phục dân làng của Mtao Mxây về với bộ tộc của mình. (Cần phân tích rõ hơn cách thuyết phục của Đăm Săn) Đáp lại mong muốn tha thiết đó, cảm phục trước khí phách anh hùng, tài năng, sức mạnh của Đăm Săn, cảm mến đức khoan dung của chàng, dân làng, tôi tớ của Mtao Mxây đã vui mừng hưởng ứng lời kêu gọi, thuyết phục của Đăm Săn. (Cần phân tích rõ thêm). Phát huy cao độ vai trò của nghệ thuật so sánh phóng đại, kết hợp với lối kết cấu câu đối xứng, tác giả đã miêu tả niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ của dân làng Mtao Mxây khi theo Đăm Săn về với bộ tộc của chàng trong sự phát triển chung của cộng đồng thị tộc: “Đoàn người ...”. Điều này chứng tỏ người dân thường Ê - đê không mất quan tâm đến cái chết của Mtao Mxây, họ chỉ mong có một cuộc sống ổn định trong một cộng đồng ngày một đông hơn, giàu hơn, hùng mạnh hơn. Mọi người đi theo Đăm Săn, tôn vinh chàng vì chàng đã giúp cho khát vọng của họ trở thành hiện thực. Ở đây, khát vọng, quyền lợi giữa cá nhân người anh hùng với khát vọng, quyền lợi của cả cộng đồng có sự thống nhất cao độ.
 
H

hocmai.nguvan

Chú ý em nhé!
Văn học Việt Nam bao gồm 2 bộ phận: VH dân gian và VH viết, nếu em chỉ trình bày VH viết thì vô hình chung e ko công nhận VHDG là 1 bộ phận của VHVN rồi
Câu 2 nói đến không khí, quang cảnh nhà tù trưởng sau chiến thắng Mtao Mxay, chứ không phải miêu tả cảnh trận chiến nhé.
Các em chú ý đọc kĩ câu hỏi của các bạn và trả lời đúng trọng tâm nhé, tránh việc trả lời thừa, không đúng, như vậy sẽ mất công đấy!
Cảm ơn các em!
 
Top Bottom