A
anhcute


Dạo này mình có việc bận ít lên 4rum. Hôm nay ghé thăm thấy mới có rất nhiều mem làm thơ rất hay . Để giúp các bạn làm thơ hay hơn nữa, mình post cái này , tuy hơi dài nhưng có ích , các bạn chú ý
Thi Luật
Để giúp các bạn trẻ thông hiểu những cái hay, cái đẹp của thi ca Việt Nam, đặc biệt là thơ mới, Non Sông xin cống hiến các bạn một bài viết ngắn tóm lược quy luật của những thể thơ phổ thông VN. Hy vọng nhờ đó mà các bạn có thể sáng tác và cùng góp tay giúp duy trì văn hóa Việt. Nhiều tin liệu quý báu trong đây được dẫn từ hai quyển sách Luật thơ Mới và Tiếng Việt Tuyệt Vời. Non Sông chân thành cảm ơn các vị tác giả.
Bình là bằng phẳng, đều đều, bình thường; trắc là nghiêng lệch. Âm thanh đang ở mức bình thường (bình thanh) chợt bổng lên cao hay đổ xuống thấp hơn (trắc thanh).
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
1. Vần có 2 thứ:
a. bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — hai, hài
b. trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — hải, hãi, hái, hại
Tiếng bình không vần với tiếng trắc: hai không vần với hải.
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng "thấy", "mấy" cùng phát ra một âm "ây" cùng gieo trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" tương tự, cùng gieo bình thanh. Tất cả từng cặp một như thế gọi là vần với nhau.
2. Vần thể giàu hay nghèo:
a. vần giàu: những tiếng có cùng âm và thanh
Phương, sương, cường, trường — vần trắc giàu
Thánh, cảnh, lãnh, ánh — vần bằng giàu
b. vần nghèo: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Minh, khanh, huỳnh, hoành — vần bằng nghèo
Mến, lẽn, quyện, hển — vần trắc nghèo
3. Trong thơ Việt, có 2 cách gieo vần
a. Gieo vần ở giữa câu:
Tiếng cuối của câu trên vần với một tiếng nằm bên trong câu dưới. Như trong thể thơ lục bát, tiếng cuối câu lục vần với tiếng 6 câu bát theo sau.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không.
Nguyễn Du
b. Gieo vần ở cuối câu:
Các tiếng cuối câu vần với nhau.
Thi Luật
Để giúp các bạn trẻ thông hiểu những cái hay, cái đẹp của thi ca Việt Nam, đặc biệt là thơ mới, Non Sông xin cống hiến các bạn một bài viết ngắn tóm lược quy luật của những thể thơ phổ thông VN. Hy vọng nhờ đó mà các bạn có thể sáng tác và cùng góp tay giúp duy trì văn hóa Việt. Nhiều tin liệu quý báu trong đây được dẫn từ hai quyển sách Luật thơ Mới và Tiếng Việt Tuyệt Vời. Non Sông chân thành cảm ơn các vị tác giả.
Bình là bằng phẳng, đều đều, bình thường; trắc là nghiêng lệch. Âm thanh đang ở mức bình thường (bình thanh) chợt bổng lên cao hay đổ xuống thấp hơn (trắc thanh).
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
1. Vần có 2 thứ:
a. bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — hai, hài
b. trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — hải, hãi, hái, hại
Tiếng bình không vần với tiếng trắc: hai không vần với hải.
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng "thấy", "mấy" cùng phát ra một âm "ây" cùng gieo trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" tương tự, cùng gieo bình thanh. Tất cả từng cặp một như thế gọi là vần với nhau.
2. Vần thể giàu hay nghèo:
a. vần giàu: những tiếng có cùng âm và thanh
Phương, sương, cường, trường — vần trắc giàu
Thánh, cảnh, lãnh, ánh — vần bằng giàu
b. vần nghèo: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Minh, khanh, huỳnh, hoành — vần bằng nghèo
Mến, lẽn, quyện, hển — vần trắc nghèo
3. Trong thơ Việt, có 2 cách gieo vần
a. Gieo vần ở giữa câu:
Tiếng cuối của câu trên vần với một tiếng nằm bên trong câu dưới. Như trong thể thơ lục bát, tiếng cuối câu lục vần với tiếng 6 câu bát theo sau.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không.
Nguyễn Du
b. Gieo vần ở cuối câu:
Các tiếng cuối câu vần với nhau.