1. Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược ngà
Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với sự mất mát, chia ly, đau thương, đỗ vỡ, tàn phá, nước mắt… Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn
“Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mỹ mà còn đem đến cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữu: tình cha con.
Có thể nói hình ảnh cô bé Thu hồn nhiên, ương bướng, ngang ngạnh, có tình yêu thương cha sâu đậm, một nhân vật chính trong tác phẩm, đã để lại nhiều thiện cảm trong lòng độc giả. (Cảm nhận nhân vật bé Thu)
Cốt truyện xoay quanh đời sống tình cảm của gia đình người cán bộ cách mạng – anh Sáu. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho anh Sáu không còn giống với người trong ảnh mà em đã biết từ trước.
Bé Thu đối xử với cha như người xa lạ, nhất định không gọi anh Sáu là ba. Đến khi nhận ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong lòng em thì cũng là lúc anh Sáu phải trở lại chiến khu. Ở căn cứ, anh Sáu dồn hết tình thương và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con gái. Trong một trận càn, anh hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược cho người bạn nhờ gởi lại cho con.
Tình huống truyện éo le, trớ trêu đã gây nhiều nỗi xúc động trong lòng người đọc. Điều đó giúp ta hiểu rằng: mặc dù chiến tranh có xảy ra thì đời sống tinh thần người Việt luôn được giữ gìn, dù cho chiến tranh có khốc liệt đến đâu thì cũng không thể thay đổi được tình cảm con người, nhất là tình cha con. Qua tác phẩm
“Chiếc lược ngà”, chúng ta thấy được bé Thu là một đứa bé có cá tính nhưng rất giàu tình thương cha, một tình thương mãnh liệt, cao độ.
Qua lời người kể chuyện, ta thấy hình ảnh
“một đứa bé độ tám tuổi, cắt tóc ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chói dưới bóng cây xoài trước sân nhà” là biểu hiện của nhân vật bé Thu đáng yêu.
Từ lúc anh Sáu đi kháng chiến, Thu chưa một lần gặp ba, mấy lần chị Sáu có lên cứ thăm anh nhưng đường xa, lại nguy hiểm nên không thể mang con theo. Trong lòng Thu luôn gìn giữ hình ảnh của cha như tấm hình má nó đưa nó và một lòng tin tưởng và tự hào về ba nó lắm. Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Nhưng không,Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba.
“Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run:
“Ba đây con! Ba đây con” thì
“Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !”. Đó cũng là phản ứng bình thường của một đứa trẻ khi bất ngờ gặp người lạ tỏ ra thân quen với mình. Điều đó khiến cho anh Sáu chạnh lòng.
Suốt ba ngày, anh Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, anh càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”. Thu cố ý đối xử lạnh nhạt và xa lánh anh. Em nhất định không gọi anh Sáu là
“ba” mà cứ nói trổng, nói bóng gió mặc cho mẹ và bác Ba có bắt buộc và dọa nạt.
Tưởng chừng như những việc làm ấy cho chúng ta thấy Thu là một đứa bé không biết nghe lời. Nhưng không! Điều đó càng thể hiện rằng Thu rất yêu ba nó cả. Vì thế mà Thu mới tỏ ra lạnh nhạt với anh Sáu. Thu không muốn gọi anh Sáu là
“ba” chỉ tiếng gọi thiêng liêng ấy Thu chỉ dành cho duy nhất một người mà nó tôn kính.
Những ngày kế tiếp, Thu vẫn bướng bình với anh Sáu. Nó nhón gót lấy vá, múc từng vá nước trong nồi cơm ra để tránh bị nhão, khỏi bị má đánh đòn chứ nhất định không gọi anh Sáu là
“ba”. Trong bàn ăn, Thu không chấp nhận cái trứng cá mà anh Sáu gắp cho, nó dùng đũa xoi vào chén cơm rồi bất thần hất cái trứng ra khỏi chén. Những biểu hiện ấy cho thấy Thu ương ngạnh biết bao.
Chúng ta vẫn tự hỏi: Tại sao Thu cố chấp như vậy, không tin rằng đó là ba mình ngay khi cả bác Ba, cả mẹ – những người mà Thu tin tưởng nhất đều khẳng định anh Sáu là ba của Thu? Việc em nói năng cộc lốc, cư xử vùng vằng, thái độ ương ngạnh là không đáng trách. Em không tin anh Sáu là ba chỉ vì vết sẹo làm cho anh khác với người trong hình mà em đã được biết.
Quả thật, chiến tranh không những làm biến dạng con người mà còn gây ra những cảnh ngộ éo le, những nỗi đau gia đình chua xót. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có bản lĩnh riêng, tình cảm sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó là ba, người mà em yêu kính. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu dành cho
“người cha khác” – người trong tấm hình chụp chung với má.
Bị anh Sáu đánh, Thu bỏ về nhà ngoại. Trong đêm đó, nó đã được ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi gương mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu nay đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái ân hận và hối tiếc:
“nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Đáng lẽ hai ngày anh Sáu được nghỉ phép nó đã được nũng nịu với ba, vòi vĩnh ba kết tóc. Nhưng nó lại không chịu gọi một tiếng
“ba”.
Lúc ấy, nhớ lại ánh mắt giận dữ của anh Sáu khi đánh nó, nụ cười chua xót khi nó không chịu gọi
“ba”, Thu cảm thấy hối hận đến nhường nào. Nó đứng ở góc nhà, tựa cửa, đôi mắt buồn… Đâu rồi sự ương ngạnh, bướng bỉnh mà thay vào đó là ánh mắt ánh lên sự hồn nhiên của trẻ thơ.
Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong
“vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Bà ngoại đã giúp bé Thu hiểu ra tất cả mọi điều, phá tan sự hoài nghi trong nó, nhận ra những sự thay đổi trên khuôn mặt anh Sáu. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp
“thôi, ba đi nghe con!”.
Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét
“Ba…a…a…ba!”.
“Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”.
Đi liền với tiếng gọi đẫm đầy nước mắt là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má,khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi… Nó thấy hối hận, thấy thương ba nó vô cùng và bằng tất cả sức lực nhỏ bén ó muốn níu giữ ba nó ở lại một cách vô vọng. Nó biết ba nó phải đi, nhất định phải đi vì nhiệm vụ cách mạng đang chờ. Tuy biết thế nhưng nó vẫn cố làm điều gì đó để thể hiện tình yêu ba nó một cách nồng nhiệt nhất.
Trước cảnh chia li, bến sông bỗng trở nên nặng nề. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba
“bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”. Ai cũng thấu hiểu cho nghịch cảnh ấy, chỉ biết cảm thông và động viên nhau.
Ở Thu, cách bộc lộ tình cảm dường như thật khác so với những đứa bé cùng tuổi: dồn nén, vỡ òa, giữ chặt, không thể cắt rời. Cách biểu hiện ấy khiến người đọc không ai là không ngăn được xúc động trong lòng. Đến bác Ba, người kể chuyện, cũng phải thừa nhận rằng như
“có ai đó nằm chặt trái tim mình”.
Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu,người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ (là cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Phải là người từng trải, sống hết mình vì kháng chiến thì Nguyễn Quang Sáng mới sáng tạo được hình ảnh nhân vật đến mức chân thực như vậy.
Truyện còn lôi cuốn độc giả, bởi nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện
“Chiếc lược ngà” là Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những tình huống bất ngờ nhưng hợp lý: bé Thu không nhận ra anh Sáu vì khi về thăm nhà rồi lại biểu lộ tình cảm nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trong lúc chia tay.
Sự bất ngờ càng gây hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lý của các sự việc tưởng chừng mâu thuẫn. Ngoài ra nghệ thuật miêu tả tâm lý trẻ thơ cũng rất độc đáo. Một bé Thu bướng bỉnh, cá tính nhưng lại giàu tình thương với cha mình.
Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca:tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.
2. Suy nghĩ của em về tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu
Tôi đã từng rơi nước mắt trước những tình cảm cha con thật cảm động và cao thượng… Người cha, với biết bao gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng, với bao nhiêu công ơn lớn lao mà mây trời lồng lộng cũng không phủ kín. Đừng bao giờ nghĩ rằng tình phụ tử không thiêng liêng và cao cả, không ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử, nếu ai có những suy nghĩ đó thì chắc chắn sẽ có một cách nhìn khác về tình cha con qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, được nhà văn Nguyễn Quang Sáng khắc họa thành công nhân vật bé Thu thật ấn tượng và tinh tế, nổi bật hơn là tình cảm cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh khắc nghiệt.
Câu chuyện kể về ông Sáu , người chiến sĩ xa nhà sau 8 năm mới có dịp về quê thăm con. Bé Thu không nhận ra cha nó vì vết sẹo trên mặt làm ông không giống với bức hình chụp với má mà nó đã từng biết đến, vì thế nó đối xử với ông như một người xa lạ và hết sức lạnh lùng. Đến khi nó nhận ra ông Sáu là ba, khi tình cảm cha con như bỗng nổi dậy trong người nó thì đó cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở căn cứ, nhớ đến lời hứa với con, ông Sáu đã dồn hết tình yêu thương, và sự mong nhớ con vào chiếc lược ngà mà ông đã tỉ mỉ làm miệt mài từng cái răng cho cây lược ngà chỉ có một hàng răng thưa, hay gò lưng, tẩn mẩn với từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” trên sống lược để tặng cho con gái bé bổng của mình. Nhưng không may, trong một trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy, ông Sáu đã hy sinh. Trước khi nhắm mắt, ông chỉ còn kịp trao chiếc lược ngà cho người bạn thân bác Ba nhân vật kể chuyện.
Bé Thu, hình tượng nhân vật trọng tâm trong câu chuyện, được tác giả khắc họa một cách cực nhạy bén và tinh tế. Thu là một cô bé rất cá tính, bướng bỉnh và gan góc, nhưng lại giàu tình cảm. Thái độ của nó trái ngược hoàn toàn với những ngày đầu khi ông Sáu trở về thăm nhà và lúc ông Sáu sắp ra đi, song trái ngược mà vẫn nhất quán. Có lẽ chỉ vì quá yêu ba, quá khát khao được có ba nên khi nhận định đó không phải là ba của mình thì nó nhất định không chịu nhận ông Sáu, nhất định không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nó cứng đầu thế đấy, bởi lẽ trong tâm trí của nó chỉ có duy nhất hình ảnh người cha trong tấm ảnh mà nó vẫn thường thấy mỗi ngày, chứ không phải bộ dạng của ông Sáu bây giờ. Người cha không được đứa con nhìn nhận bởi vết sẹo trên má làm mặt ông bị biến dạng và khác trước quá nhiều… Chính vết sẹo ấy là dấu tích không mong muốn của chiến tranh tàn khốc mà Thu thì còn quá nhỏ để có thể cảm nhận và hiểu được điều đó, hiểu được sự khốc liệt của bom lửa đạn, hiểu được cái cay xé của mùi thuốc súng, hiểu được sự gian nan, vất vả trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt mà người lính phải trải qua… Nhưng cũng chính từ sự kiên định, thẳng thắn, bản lĩnh và lập trường vững chắc đó đã phần nào thể hiện được hình ảnh một cô gái giao liên dũng cảm sau này.
Tác giả tỏ ra am hiểu tâm lý trẻ con, với tất cả sự trân trọng và yêu mến rất thiêng liêng, rất đẹp đẽ dành cho những tâm tư, tình cảm vô giá ấy. Bé Thu, một cô bé mạnh mẽ, bướng bỉnh, nhưng dù sao thì nó vẫn là một đứa trẻ 8 tuổi với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ và đáng yêu. Khi nó bị ông Sáu đánh vì cái tính ngang ngạnh, thật ngạc nhiên vì nó đã “cầm đũa, gấp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”, dường như nó sợ ông Sáu sẽ thấy được những giọt nước mắt trong chính tâm tư của nó. “Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”, trong một loạt hành động đó, dường như có điểm đối lập giữa một bên là sự già dặn và cứng cỏi, nhưng với một khía cạnh khác, nó lại muốn được yêu thương, vỗ về. Từ đó, rõ ràng cho ta thấy được cái tính cố chấp rất hồn nhiên, rất trẻ con của nó đã được khắc họa một cách rất thực và gần gũi qua nhiều chi tiết.
Và rồi đến lúc nó nhận ra ông Sáu là cha, nhận ra được cái lỗi của chính mình, thì thật khó để người khác có thể phủ nhận rằng nó là một cô bé giàu tình cảm. Có ai ngờ được một đứa trẻ phải xa cha mình từ lúc chưa đầy một tuổi, rồi 8 năm ròng rã trôi qua vô tình, thế mà nó vẫn luôn vun đắp, ấp ủ một tình yêu mãnh liệt đến bất tận dành cho người cha thân yêu của nó. Tình yêu đó đã đánh bại được thời gian, đánh bại luôn cả khoảng cách giữa cha và con mà khoảng thời gian ấy đã tạo nên. Tình yêu thương dành cho cha của một đứa bé chỉ mới 8 tuổi mà lại dạt dào và sắc nét đến thế ! Dẫu rằng người cha thân thương mà nó vẫn hằn mong chưa hề mang đến cho nó sự nâng niu, săn sóc, hay một bàn tay rộng ấm áp tình thương đến bên ân cần và che chở cho nó. Chỉ những điều đơn giản thế thôi mà ông Sáu vẫn chưa hề làm được, thì mơ gì đến việc ông làm cho nó một món đồ chơi, kể cho nó nghe một câu chuyện, hay tâm sự và sẻ chia với nó những niềm vui, nỗi buồn từ khi nó đến với thế giới này, tất cả đều quá xa vời với nó. Nó dường như không có một kỷ niệm hay một chút ấn tượng gì về cha của nó, nhưng chắc hẳn, đã không ít lần nó tự tưởng tượng ra hình ảnh người cha của nó là một người tài giỏi như thế nào, cao lớn và có một vòng tay rộng lớn, ấm áp để ôm nó vào lòng ra sao. Tình yêu mãnh liệt của nó đã ngăn không cho nó nhận người đàn ông lạ trên mặt có vết sẹo như thế kia. Mãi đến ngày ông Sáu phải lên đường, thì đứa bé bướng bỉnh và cứng cỏi của ngày hôm qua “như bị bỏ rơi”, “lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó” dường như đó là lúc nó thèm muốn cái tình cảm ấm áp của gia đình, nó muốn ông Sáu nhận ra sự hiện diện của nó trong lúc ấy, nó muốn chạy lại hôn ba nó lắm, nhưng chẳng hiểu sao lại có một cái gì đó ngăn nó lại và làm cho nó cứ mãi đứng yên. Đến phút chia tay, ông Sáu mới nhìn sang và chào nó với một giọng khe khẽ “Thôi ! Ba đi nghe con !” thật lạ, sao chỉ là một lời chào vẻn vẹn trong bốn từ thế kia ? sao ông không dặn dò hay nhắn nhủ đến nói một điều gì? có lẽ nào sự phũ phàng mà nó dành cho ông Sáu, đã làm cho ông thất vọng và tổn thương lắm nên mới như vậy ? Rồi đến khi tiếng kêu của nó thét lên “Ba… a… a… ba!”, “tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Đến lúc ấy, mọi người mới nhận ra rằng, nó thèm muốn được gọi tiếng “ba” đến nhường nào. Tiếng “ba” mà nó đã cất lên trong nghẹn ngào, tiếng “ba” mà nó đã đè nén sau bao nhiêu năm cách biệt, nghe mới thật thiêng liêng làm sao!. Đó là tiếng kêu như vỡ tung ra từ đáy lòng của nó, “nó vừa kêu vừa chạy xấn tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt cổ ba nó”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hon vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Tất cả những điều đó đã thể hiện được một tình yêu mãnh liệt lên đến điểm cao trào nhất của đứa con dành cho ba nó, khiến mọi người xung quanh ai cũng không cầm được nước mắt trước cảnh tượng đầy xót xa ấy. Điều đó càng chứng tỏ được tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu sắc. Nó chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba.
Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương, đặc biệt là tình cảm yêu thương con đến tha thiết. Tình cảm ấy được biểu hiện phần nào trong chuyến về quê thăm nhà. Khi xuồng chưa kịp cập bến, trông thấy con ông đã vội vàng “nhảy lên bờ, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con ! ba đây con.” Cứ ngỡ rằng bé Thu sẽ chạy ào tới, ôm lấy cổ ba cho thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hụt hẫng, bất ngờ khi thấy: “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy ”. Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách gần gũi, vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được. Có lúc giận quá ông đã đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu đã khiến ông cảm động “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt ”, những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! Đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ông được nghe tiếng ba thân thương từ cô con gái nhỏ, bởi vì sau đó, chẳng bao giờ ông có thể trở về được nữa! Trong những ngày ở khu căn cứ, ông ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ mãi lời con dặn: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với ông thì đó là mơ ước đầu tiên và cũng là duy nhất, nên nó cứ mãi thôi thúc trong lòng ông. Lúc tìm được một khúc ngà, ông đã vui mừng “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Ngày qua ngày, ông cặm cụi “cưa từng răng lược, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những lúc nhớ con ông lại mang cây lược ra mài lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt, tuy rằng chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông lúc này. Ông đã nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời. Có lẽ những lúc ấy ông mong có một lần về phép thăm nhà để tự tay mình cầm cây lược chải tóc cho con. Đau đớn thay chiến tranh khiến ông chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái được nữa. Ông bị hy sinh trong một trận càn lớn, nhưng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, ông cầm cây lược trao cho người bạn thân với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời. Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích, làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn. Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng, Chủ đề của chuyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cha con trong những tình huống éo le và cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc đặc biệt là tâm lý trẻ thơ, hơn nữa lãi có giọng văn dung di, cảm động đã giúp truyện có được vị trí riêng trong lòng độc giả .
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vì thế mà ta càng quí cuộc sống thanh bình của ngày hôm này, quí tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ, chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha, và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này !