nghị luận văn học

T

thuydung97

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

mọi người giúp mình lập dàn ý 2 đề văn này vs ạ,đây là đề văn ôn học kì của mình ạ.
mình sắp kiểm tra học kì rồi.
1.dấu ấn thơ ca dân gian trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.
2.vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại của bài thơ Chiều tối.
mình cảm ơn ạ.
chúc mọi người có 1 kì kiểm tra học kì gặp nhiều may mắn!
 
L

lililovely

Bài tham khảo:

Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với chất dân ca - điệu thơ dân tộc.

“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.

Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới.

Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo những quy tắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…

Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày, phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng vo:

“Gió mưa là bện của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ:

“Hai thôn chung lại một làng,
Có sao bên ấy chẳng sang bên này?
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”

Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm được.

Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại, phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.

Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví von, cũng như giọng điệu chung.

Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.

Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá:

“Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”.

(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)

Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc:

“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.

Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào… để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của ca dao thuần khiết:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…

Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ ông.

Sưu tầm*
 
L

lililovely

Bài tham khảo


Hồ Chí Minh là nhà Cách mạng vĩ đại của dân tộc ta, đồng thời là một tác gia lớn. Bác để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nổi bật nhất là tập “Nhật kí trong tù”.Trong số 133 bài thơ của tập nhật kí, “Mộ” là một bài thơ nhỏ nhắn, xinh xắn, đáng yêu. Đó là bài thơ thứ 31, được sáng tác vào cuối thu năm 1942, trên con đường từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn. Đằng sau đó là vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Bài thơ tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại.

Điều đó được thể hiện ở một số phương diện: Thi đề, thi liệu, bút pháp, ngôn ngữ, …
Trước tiên là thi đề. Nội dung trữ tình của bài thơ thuộc về một trong những đề tài khá quen thuộc trong thơ cổ điển phương Đông đó là hoàng hôn và nỗi niềm cô đơn. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý ở đây là ngay trong thi đề, Bác đã đưa vào bài thơ những yếu tố hiện đại. Đó là sự chuyển dịch từ không gian vũ trụ mang tính chất vĩnh viễn, vĩnh hằng đậm màu sắc ước lệ ở hai câu thơ đầu sang không gian đời thường, mang tính chất sinh hoạt vừa cụ thể vừa sống động ở hai câu sau, điều mà trong thao tác tư duy thơ, các nhà thơ trung đại ít khi thể hiện.
Chính sự phá cách trong việc mở rộng biên độ của đề tài đã chi phối việc sử dụng thi liệu. Đã có một sự sáng tạo mới về thi liệu mà cụ thể là việc sử dụng hình ảnh thơ. Ngoài những hình ảnh quen thuộc: vân (cô vân), điểu (quyện diểu), lâm (quy lâm), sơn (sơn thôn)…là những chất liệu mới: thiếu nữ, ma bao túc (xay ngô), lô (lò than)… Điều này không chỉ cho thấy tính hiện đại của bài thơ qua sự vận động của thi tứ mà quan trong hơn, còn cho thấy tính hiên đại của bài thơ qua quan niệm thẫm mĩ. Đối với Hồ Chí Minh, khung cảnh sinh hoạt sống động kia mới thực sự là nội dung chính của bức tranh. Hãy chú ý cách tô đậm các đường nét chính và gam màu chủ đạo của khung cảnh chiều tối nếu ta nhìn bài thơ từ góc nhìn của hội họa. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng kia không ngẫu nhiên và cũng không chỉ đóng vai trò của một thứ chất liệu thông thường. Nó toát lên sức quyến rũ của sự sống, nét duyên dáng, trẻ trung của con người. Đó là vẻ đẹp của cuộc sống mà tác giả Ngục trung nhất kí luôn lưu tâm và là một thứ lửa sưởi ấm cõi lòng nhân vật trữ tình của bài thơ. Vì lí tưởng mà Người theo đuổi, đă từng chấp nhận xa Tổ quốc, quê hương và sẵn lòng chịu đựng vô vàn những thử thách, gian truân khác trên chặng đường đấu tranh suốt ba mươi năm…
Tiếp theo, nét cổ điển và hiện đại của bài thơ Chiều tối cũng được thể hiện khá nổi bật trong bút pháp.Ta có thể nhận thấy bút pháp gợi tả, chấm phá theo phong cách vẽ tranh thủy mặc được tác giả sử dụng một cách hiệu quả. Ngay cả trong khi sử dụng bút pháp chấm phá theo lối cổ điển, tác giả đã để dấu ấn người nghệ sĩ hiện đại của mình qua thái độ và cảm xúc riêng (khá trực tiếp) lên tạo vật. Tiếp cận hệ thống hình ảnh cụ thể của bài thơ, người đọc có thể nhận ra một cách rõ ràng là tác giả không chỉ muốn dừng lại trong hình ảnh còn chung chung của điểu (một cánh chim) mà muốn cá biệt hóa bằng nét vẽ quyện điểu (một cánh chim mỏi mệt); cũng không muốn đơn giản hóa trong một khái niệm là vân mà cố tình tạo thêm những điểm nhấn cô vân mạn mạn (đám mây đơn lẻ uể oải, chậm chạp trôi)… Sự chia sẻ về tình cảm và thái độ ngay trong khi sử dụng bút pháp cổ điển ở hai câu đầu của bài thơ cho thấy sự hiện diện của cái “Tôi” trữ tình và là một bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh thuộc kiểu mẫu nhà thơ hiện đại. Điều này càng là một hiển nhiên khi tác giả chuyển từ bút pháp gợi tả, chấm phá sang bút pháp miêu tả, thực tả.
Cuối cùng, trong sử dụng ngôn ngữ, màu sắc cổ điển mà hiện đại của bài thơ lại càng rõ với sự gia tăng và ưu tiên cho động từ và ngôn ngữ thông dụng của bạch thoại (Bạch thoại tức là ngôn ngữ nói của người Hán; ngôn ngữ viết dựa trên ngôn ngữ nói ấy; phân biệt với văn ngôn, văn bạch thoại) *
Mộ (Chiều tối) là một bài thơ đáng yêu: Màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Sưu tầm
 
H

honghanh812

Trong khi hầu hết các nhà Thơ mới - theo nhận xét của Hoài Thanh "đều đội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp" thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò , cây đa, bến nước....Ông đã trở thành "chủ soái" của trường phái "thơ mới dân gian" gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Bài thơ "Tương tư" rất tiêu biểu cho hồn thơ và giọng thơ Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nét truyền thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình cái hồn thơ mới.

Trong dòng Thơ Mới 1930-1945 ,”Tương tư” của Nguyễn Bính có phong cách cổ điển dân dã ở cả thi liệu, thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc phương Tây , Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguyễn Bính tinh ròng chất ca dao .Nét truyền thống trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là thể thơ truyền thống do người Việt Nam sáng tạo nên. Nguyễn Bính vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp chẵn 2/2/2; 2/4( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu bát ) thường thấy của ca dao:

“ Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông
Một người / chín nhớ / mười mong / một người”

Về đề tài, bài thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người con gái. Đây là đề tài thường thấy trong ca dao.

Nhớ ai khổ sở thế nầy
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình
(ca dao)

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(ca dao)

Thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò ép nhưng cũng không rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: “ Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi”. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao:

Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.

Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã tạo nên những dòng thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “ chân quê”:

Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có tiếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người mình thương:

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Hay những lời kể chân chất:

Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái đình, của làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.

Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã hòa hợp vào "Tương tư" của Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những cụm từ phíếm chỉ tôi- nàng, Thôn Đoài - thông Đông, bên ấy - bên này, bến - đò, hoa - bướm cùng đại từ phiếm chỉ "ai" rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau.Nguyễn Bính đã làm người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:

“ Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”

- Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả dùng hình ảnh “ hoa- bướm” (hoa khuê các, bướm giang hồ), “trầu- cau” (giàn giầu/ hàng cau liên phòng), “bến- đò” (Bao giờ bến mới gặp đò).

Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian, "chín nhớ mười mong" được hoán cải từ thành ngữ " chín nhớ 10 thương" từ thành ngữ để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm chí người ta còn chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ngữ không còn ý nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội:

“ Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”

Lối đan chữ “ chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng trai đang trong trạng thái “ tương tư”.

Nét hiện đại

Trong bài thơ, chất dân gian vẫn không lấn át được những tình điệu lãng mạn vốn là sản phẩm đặc thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nhịp điệu, hình ảnh và đặc biệt là cảm xúc - tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp.
Trước hết ở nhịp điệu Nhịp điệu:
Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Tác giả sử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống:

Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, / bướm giang hồ /gặp nhau.

Hay sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:

Ngày qua ngày/ lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.

Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ông những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.

-Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm…nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô gái
“Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang”

“Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh quá thương nàng, trối kệ thị phi”

Còn trong thơ Ng. Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình ảnh thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:

Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Sự thực trong câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành thị của con người thời Âu hóa với đặc điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám chường cái tôi của mình ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh liệt. Ngay ở tên nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng : "tương tư" - nó như phô bày, như khoe lòng mình trước thiên hạ rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều này là một sự hiếm thấy trong ca dao.

“Tương tư” của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc nhưng nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh đó đó ông đã thổi “ hồn quê” vào bài thơ.Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang màu sắc cá nhân. Cũng mang “ hồn quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ quát còn trong thơ lục bát của Nguyễn Bính, không gian đồng quê được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ vừa là sự kết hợp , kế thừa của những yếu tố truyền thống vừa có những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.


p �^ � c t `�� p3� tổng thể đất nước con người xứ Huế . Mạch phát triển tình cảm xuyên suốt bài thơ cũng là mạch thống nhất, đó là tình cảm đằm thắm sâu nặng cuả HMT với quê hương xứ Huế, dù cung bậc và sắc thái tình cảm có khác nhau, song tình cảm ấy cuả HMT là vẫn là một khối tinh ròng và lấp lánh những sắc màu cuả tình quê hương, tình tự dân tộc, vì thế bài thơ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.

Mạch phát triển thống nhất nhưng có một bước “ nhảy vọt nghệ thuật “ giưã các khổ thơ. Nghiã là mội khổ thơ tồn tại độc lập, không quan hệ với nhau. Dường như còn có vẻ xa lạ với nhau. Chẳng hạn khổ I có nhân vật “ anh “, khổ II có nhân vật “ ai ” và khổ III có nhân vật “ em “. Không thể có một nhân vật trữ tình vưà là em đối thoại với anh, vưà là mình đối thoại với ai, lại vưà là anh đối thoại với em trong cùng một bài thơ. Cũng xa lạ như vậy về bút pháp, khổ I được viết bằng bút pháp hiện thực. Cảnh và người là cảnh thực, thực đến từng chi tiết, chẳng hạn chi tiết lá trúc che ngang mặt chữ điền. Khổ thơ II cảnh không còn là cảnh hiện thực nưã. Hiện thực thăng hoa thành Siêu thực. Người đọc chỉ còn thấy một vài dấu tích cuả hiện thực: dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay, con thuyền, dòng sông. Và ngay cả những dấu tích ấy, cũng nhoà đi trong tâm tưởng HMT. HMT đang đâu đó khuất trong bóng tối, nhìn ra ngoài kia, thấy rất rõ đường nét, linh hồn cuả mây, gió, sông nước, và dòng sông trăng soi sáng con thuyền chở trăng đang đậu bến. Đến khổ thơ III, HMT đã ở nơi xa lắm, ngoài cõi nhân gian, nhìn thấy mình đã “ mờ nhân ảnh “ trong cõi người. Đó không còn là cái nhìn Siêu thức, mà là cái nhìn bằng tâm linh. Chỉ khi linh hồn thoát ra khỏi thân xác, bước vào cõi ánh sáng chói loá nhìn không ra, thì khi ấy mới nhìn thấy con người trần gian mờ mờ nhân ảnh.



HMT đã đem đến một bút pháp mới lạ cho thơ VN. Từ bút pháp hiện thực, tượng trưng quen thuộc, thơ ca đã đã bước hẳn sang thế giới siêu thực . Hơn thế, HMT còn dẫn thơ ca vào cõi tâm linh nhưng lại rất dân dã và hiện thực. Bài thơ tiêu biểu cho Thơ mới, có sự kết hợp giữa tinh hoa thơ trung đại và nét mới mẻ của thơ hiện đại phương Tây. Từ đó thấy rằng thơ mới là một bước tiếp nối, phát triển của thơ ca dân tộc chứ không phải là bước đọan tuyệt với thơ trung đại.
 
Top Bottom