Nghe chính tác giả nói về tác phẩm "Vợ nhặt"

C

conu

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

ĐIỀU GÌ KHIẾN BẠN SỢ NHẤT KHI PHÂN TÍCH "VỢ NHẶT" - Phần I
... Nhà văn Kim Lân:
"Cái đói" là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái "mơ hồ" ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ."...


Thưa nhà văn, dịch đói năm 1944 -1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế?
Nhà văn Kim Lân: Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người vị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự.

Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.


Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói khác mà các nhà văn thường mô tả?
Nhà văn Kim Lân: "Cái đói" là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái "mơ hồ" ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.

Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống?


Nhà văn Kim Lân: Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hòa bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta phải ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được rút ra từ tạp Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.

Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là mẩu hồi ức "Trước kia mỗi chiều" có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua quá nhanh. Hiện tại là cảnh đói khát ủ rũ, cảnh những người ăn xin "xanh xám như bóng ma", cảnh thây người chết "nằm cong queo bên đường". Vậy mà buổi chiều anh Tràng trở về với một vẻ mặt có "vẻ gì phởn phơ khác thường", một nụ cười tủm tỉm và "hai mắt thì sáng lên lấp lánh", bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e thẹn. Đấy là một sự kiện quá ư lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống - chết. Tràng khi đó có ý thức được việc mình làm?
Nhà văn Kim Lân: Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo hồi đó rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại "nhặt" được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ chậc lưỡi, theo đúng cách của một người hay "ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch". Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.

Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình?
Nhà văn Kim Lân: Thị đã ở bờ vực. Số phận thị đã rõ ràng và thị hiểu được điều ấy. Cho nên thị đi bên Tràng mà đầu cúi xuống, chiếc nón rách "nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa một câu thị đã tỏ vẻ khó chịu.
 
Last edited by a moderator:
C

conu

Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những "khuôn mặt hốc hác u tối" từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên "rạng rỡ hẳn lên"? Sự xuất hiện của Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng sinh khí tươi mát?
Nhà văn Kim Lân: Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng. Mọi người bàn tán và cũng đôi phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ nghĩ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến họ tin vào cuộc sống thêm một chút. Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giấy lát đó, họ sẽ nghĩ rằng "Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này". Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng "ôi chao" và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn, "họ nín lặng".

Chuyện Tràng "nhặt" vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một cách dễ dàng?
Nhà văn Kim Lân: Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời. Và nó còn được dùng như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ. Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa khi họ "cùng nín lặng" hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ.

Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm "thích ý" lắm, và hắn vênh vênh "tự đắc với mình". Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình pha chút "anh hùng", "kiêu bạc" trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ, Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải "đèo bòng" thêm một người nữa ư?
Nhà văn Kim Lân: Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải "một mình" đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người đàn bà. Nhưng khi còn hai người ở "con đường sâu thăm thẳm" vắng vẻ thì rõ ràng người đàn bà kia là toàn bộ cuộc sống bên ngoài đối với Tràng, Tràng phải tìm hiểu nó. Tràng ý thức đầy đủ sự có mặt của thị là dành cho Tràng. "Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia". Tại sao vậy? Tại vì thực sự người đàn bà đi bên cạnh Tràng còn hoàn toàn xa lạ với Tràng.

Tại sao khi không cảm thấy mà Tràng lại cảm thấy như thế?
Nhà văn Kim Lân: Tôi có chủ ý không tả tâm trạng của người đàn bà khi đó. Nếu tả kỹ quá thị sẽ mất đi sự "xa lạ" không phù hợp với hoàn cảnh của câu chuyện. Sự yên lặng và xa lạ của thị khiến cho không gian như đọng lại và cho Tràng cảm thấy thị ở thật gần mình. Điều này khiến Tràng đột nhiên "hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày". Tràng khi đó cõ lẽ quên tất cả, không phải với vẻ bất cần mà là do hình ảnh thị đã dần xâm nhập và chiếm trọn cõi lòng của Tràng. Ở người "đàn ông nghèo khổ" này cuộc sống đột nhiên "mới mẻ" và lạ lùng. Đó là cảm giác có thật, nó "mơn man khắp da thịt". Có một điều thật ý nghĩa đang diễn ra với Tràng "Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên".


Nhưng tên, hoàn cảnh, quê quán, cha mẹ thị Tràng đều chưa biết. Người đọc có cảm giác là "tình nghĩa" của Tràng đối với người đàn bà là không thật?
Nhà văn Kim Lân: Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khốn khó lúc bấy giờ, khi mỗi người cần đến sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác cả về vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phao cuối cùng, là tất cả hy vọng của người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa đó còn là "nghĩa" của một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà "ưng thuận về không" làm vợ. Và khi cảm thấy có "tình nghĩa" với người đàn bà thì sự đối diện của Tràng với chị ra không còn đáng sợ nữa.

Hoàn cảnh đã xô đẩy người đàn bà đến với Tràng. Vậy giữa họ liệu có tình cảm thực sự không?
Nhà văn Kim Lân: Sao lại không? Câu chuyện giữa hai người diễn ra như bất cứ với cặp tình nhân nào. Ban đầu là bắt chuyện vu vơ, rồi trêu chọc nhau. Khi câu chuyện ra chiều "thân thân", người đàn bà đã "tủm tỉm" cười, phá đi vẻ mặt cau có, ngượng ngập. Chị ta bắt đầu quen với hoàn cảnh mới. Và khi Tràng đùa "vợ mới vợ miếc" và cười cợt, thị đã "phát đánh đét" vào lưng hắn. Đây là cử chỉ "tỏ tình" của thị đối với ân nhân, nó đầy âu yếm và cũng đáng yêu. Nó làm cho Tràng hạnh phúc. Anh chàng "thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Cuộc sống thường nhật khổ khốn bị quên lãng. Với Tràng, thị là người đàn bà thứ hai sau mẹ anh yêu thương và cần đến anh. Yêu thương có thể chưa rõ nhưng cần thì đã rõ. Anh ta hớn hở vì điều đó. Riêng với người đàn bà, hiểu hoàn cảnh mình nên cử chỉ "tỏ tình" trên kia vừa hàm chứa sự biết ơn vừa tỏ thái độ ưng thuận.

Một lần nữa sự khắc nghiệt của cuộc sống phá tan niềm vui mong manh của hai người, tiếng chó sủa váng lên làm Tràng thẹn thùng và xấu hổ, như thể có ai đó nhòm vào hạnh phúc của anh. Hình như Tràng hiểu ra rằng anh ta đang xây dựng hạnh phúc của mình trên nền tảng một cuộc sống thật bất trắc và khốn đốn?
Nhà văn Kim Lân: Đúng là anh ta có cảm giác đó. Anh ta phải xua cái cảm giác đó đi bằng cách "nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái", như thể ném thẳng vào những thách thức đau đớn của cuộc sống. Tràng cảm thấy có lỗi đối với người đàn bà kia về chuyện không đủ tiền cưới xin, lỗi vì chưa xin phép mẹ, lỗi cả chuyện hoàn cảnh gia đình khốn đốn khó có thể cưu mang được thêm người nữa. Nhưng "ý nghĩ" này của Tràng chứng tỏ Tràng đã có nhiều tình cảm với thị lắm. Cái mặc cảm ấy bây giờ mới nhận ra khiến Tràng thốt lên "Mẹ bố chúng mày cắn gì thế", "cắn gì thế" khi chỉ có Tràng và thị đi qua. Điểm cần chú ý là tiếng chó sủa ngay trước cổng nhà Tràng, nơi Tràng phải thực sự đối mặt với tất cả những điều Tràng mặc cảm.

Đi đến cổng nhà Tràng người đàn bà nhìn quanh và "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài". Phải chăng thị thất vọng vì sự nghèo túng thái quá mà căn nhà của Tràng đập vào mắt?
Nhà văn Kim Lân: Không hẳn tiếng "thở dài" ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng thị vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài là không tránh khỏi.

Dẫn thị vào nhà, Tràng tỏ ra bối rối. "Tràng quay lại nhìn thị cười cười" cố tỏ vẻ tự nhiên cho thị và cũng cho cả mình, Tràng nói đùa: "Không có người đàn bà nhà cửa thế đấy". Nghe câu đó thị lại "nhếch mép cười nhạt nhẽo". Có lẽ, thị không hề có ý "khinh thị" cái từ "nhà cửa" mà Tràng gán cho túp lều tồi tàn của mình. Vậy thì "nhếch mép" vì điều gì?
Nhà văn Kim Lân: Thị "nhếch mép" nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người đàn bà trong gia đình Tràng vừa gán cho.

Nhưng Tràng lại bối rối thực sự, Tràng sợ mất thị do hoàn cảnh của mình ư?
Nhà văn Kim Lân: Đúng thế. Ở đây diễn ra một tình cảnh khá lạ lùng. Tràng "nhặt" được một người đàn bà nhưng rồi lại sợ mất thị. Cảnh nghèo đói đã hiện lên rõ ràng. Tràng thấy có tội vì đã che giấu mà không thể kể cho thị nghe trước. Sự im lặng của thị, nỗi mặc cảm của thị, Tràng không hiểu nổi. Hơn nữa Tràng không thể tự quyết được tất cả mọi việc. Còn ý kiến của bà cụ nữa chứ. Liệu mẹ có đồng ý không? Sự chờ đợi mẹ về thật nặng nhọc với Tràng. "Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc" rồi "lấm lét bước vội" ra sân. Tràng sợ rằng người đàn bà sẽ bất ngờ từ chối không làm vợ Tràng nữa. Tràng không dám trở lại nhà mà chỉ luẩn quẩn ở sân, ở ngõ. Một lần nữa Tràng sợ đối diện với thị, nhưng không phải vì sự "xa lạ" như trước mà là sợ sự "đột nhiên từ chối".

Khi viết, ý nghĩa ấy có lúc lóe lên trong đầu ông không? Thị cũng có thể bỏ Tràng để đi ăn xin hay "theo" một kẻ khác khá hơn chứ?
Nhà văn Kim Lân: Không bao giờ. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn nhìn "bần thần" đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Sự "ngồi mớm ở mép giường" và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hiểu rõ số phận của mình.
(...)

(Còn tiếp)

Đặng Thanh Hương (Thực hiện)
 
C

conu

ĐIỀU GÌ KHIẾN BẠN SỢ NHẤT KHI PHÂN TÍCH "VỢ NHẶT" - Phần II

..."Tôi vẫn có ý định là không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của thị. Ở đây, mỗi khi thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần "nhân vật vợ mới" thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng "nhà nghèo" và "năm nay thì đói to" nên chỉ cần "chúng mày hòa hợp là u mừng". Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này..."


Trong tâm trạng bồn chồn của Tràng và sự tủi thân câm lặng của cô vợ, việc bà cụ Tứ trở về đã xua tan được không khí bế tắc. Tràng vui vẻ hẳn, còn người đàn bà lạ cất một câu chào ấm áp: "U đã về ạ". Bà cụ Tứ có ngỡ ngàng chút ít, nhưng bà cũng đồng ý chóng vánh. Không thấy bà lục vấn hỏi han gì con trai, điều mà các bà mẹ thường làm. Vậy trong mạch truyện, sự đồng ý nhanh chóng của người mẹ có quá gượng ép?
Nhà văn Kim Lân: Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay khi về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi "nóng cả ruột" của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ ở trong nhà mà lại đứng ở "đầu giường thằng con". Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm như mình đang mơ thấy cái Đục - cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà "nín lặng" hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ hơn hoàn cảnh của chúng. "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình. Mà con mình mới có vợ được" bà nghĩ. Có thể bà hơi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác "hàm ơn" đối với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp bà "lo" cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng "Chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này". Ý nghĩa về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan có người đàn bà lạ tham dự vào là một cách bà đồng ý với Tràng. Cuộc sống không cho họ đòi hỏi nhiều hơn. Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói treo lơ lửng trước mặt.

Tương lai của cặp vợ chồng mới nay như bóng tối trong con mắt bà. "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt". Xen vào ý nghĩ tối tăm, hiện thực cuộc sống đồng thanh xác nhận điều đó bằng mùi trấu khét lẹt ở nhà những người chết. Bà nghĩ đến cuộc đời bà và ngầm so sánh với cuộc sống của cặp vợ chồng này. Chúng chỉ có một điểm chung là không một chút nào tươi sáng. Bà nhắc " Con ngồi xuống đây". Lời nhắc này có ý nghĩa như lời chào thuận lòng của người mẹ. Bà thực sự chấp nhận thị là con dâu bà hay do hoàn cảnh mà bà phải chấp nhận?
Nhà văn Kim Lân: Cuộc gặp đầu tiên đó không có cái ý nghĩa "mẹ chồng con dâu". Cái tình cảm chiếm nhiều nhất trong lòng bà cụ Tứ là tình cảm "thương xót" một người đàn bà cùng đường. Hơn nữa, có một nỗi "hàm ơn mơ hồ" luôn bám lấy bà. Người đàn bà đã giúp bà cái việc bà không thể làm cho con trai là lấy vợ cho anh ta

Ở đoạn văn này, tại sao tác giả lại không phân tích tâm trạng của người đàn bà, tâm trạng nơm nớp vì có thể bà cụ Tứ sẽ không bằng lòng?
Nhà văn Kim Lân: Tôi vẫn có ý định là không mô tả trực tiếp trạng thái tâm lý của người đàn bà. Tôi muốn qua cách nhìn của Tràng, của bà cụ Tứ để làm nổi bật lên sự hiện diện của thị. Ở đây, mỗi khi thay đổi cách gọi: người đàn bà, thị, ả là một lần "nhân vật vợ mới" thay đổi vị trí trong hai con người kia. Bà cụ không còn giấu cảm nghĩ của mình nữa. Bà kể lể về đám cưới với dăm ba mâm cỗ cho hàng xóm, họ hàng, nhưng "nhà nghèo" và "năm nay thì đói to" nên chỉ cần "chúng mày hòa hợp là u mừng". Sự thành thật xen lẫn nỗi đắng cay khiến bà khóc. Bà khóc vì lo cho cái hạnh phúc mong manh của con trai khó có thể giữ nổi trong cuộc sống đói khổ này.

Tràng hồi hộp, háo hức chờ mẹ và khi bà cụ Tứ đồng ý, "Tràng thở đánh phào một cái", như vừa trút hết gánh nặng. Như vậy là Tràng chính thức có vợ. Nhưng Tràng có hiểu được những giọt nước mắt của mẹ?
Nhà văn Kim Lân: Tràng hiểu bà mẹ chỉ nhìn thấy ở việc mình có vợ những viễn cảnh tăm tối. Đó chính là điều đặc sắc của Tràng. Tràng tin tưởng ở mình, tin tưởng ở những điều tốt đẹp nẩy sinh từ lòng mình. Những điều đó không thể có một kết cục tệ hại được. Có thể là ý nghĩa nhất thời nhưng Tràng phải nhắc nhở mẹ và vợ về điều này.

Và ngọn đèn Tràng thắp lên đã an ủi cả mấy người?
Nhà văn Kim Lân: Tràng "hầm hầm bước vào" và "đánh diêm đốt đèn". Hành động kiên quyết tạo ra một hình tượng "Ngọn đèn tỏa sáng trong căn nhà tối tăm". Tại sao Tràng không thắp đèn ngay khi về nhà? Bởi Tràng chỉ thắp khi phải củng cố niềm tin dù là nhỏ nhoi cho người khác. Ngọn đèn vừa mang biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, vừa liên kết gắn bó ba người lại với nhau - ba con người đói rách. Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ. Và khi thấy sáng, bà lão "vội vàng lau nước mắt". Rõ ràng là căn nhà và trong lòng bà lão đều tốt như nhau. Ánh sáng như một lời hứa quyết tâm của người con trai gửi đến bà mẹ. Dầu đắt thế nhưng bởi có vợ mới nên con trai bà cũng mua được cơ mà. Tuy nhiên đèn sáng lên bà cũng chỉ "uể oải" đứng dậy đi nằm. Cái rạng rỡ của ánh sáng cũng chỉ là một viễn cảnh quá xa.

Ánh sáng soi rõ lòng bà mẹ và một lần nữa ngọn đèn tỏa rọi vào cuộc sống chung của đôi vợ chồng mới?
Nhà văn Kim Lân: Thực tại luôn luôn kéo người ta lại với nó. "Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ" đã lấy mất không khí lãng mạn ngọn đèn vừa mang đến. Cả hai một lần nữa lại "sượng sùng" không biết nói gì. Hình ảnh thực nhất là hình ảnh "ngọn đèn" hạnh phúc tương lai soi rọi họ và "kéo dài hai cái bóng trên vách". Hai cái bóng đó chính là cuộc sống thực của họ. Hai cái bóng lờ mờ, lê thê, khốn khổ. Sự thật trần trụi họ phải tiếp nhận là như thế.

Đêm tân hôn của cặp vợ chồng là đèn hạnh phúc. Mọi khó khăn đều tạm quên đi. Hai người hưởng cái niềm vui tột cùng mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng cái niềm vui ấy được bao quanh bởi "tiếng khóc tỉ tê nghe càng rõ". Một đêm tân hôn trong tiếng khóc người chết và mùi trấu hun khê nồng. Tràng có cảm thấy hạnh phúc không?
Nhà văn Kim Lân: Tôi tả đêm tân hôn trong hoàn cảnh đó và để phân tích xem hạnh phúc tột cùng đó có chiến thắng cái đói không. Tràng hạnh phúc. Trong khung cảnh tối tăm và ghê rợn như thế nhưng niềm vui của con người vẫn không mất đi. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy rất muộn, khi "mặt trời lên bằng con sào", chứng tỏ niềm hạnh phúc mà anh được nếm trải. Anh ta trở thành một con người khác. Một người chồng thực sự. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa soi vào hai con mắt của Tràng và mọi thứ bỗng nhiên thay đổi.

Đó là thay đổi thực hay Tràng chỉ cảm thấy thế?
Nhà văn Kim Lân: Cuộc sống thay đổi thực dù không nhiều với gia đình ấy. Tràng thấy mọi thứ "mới mẻ, khác lạ". Nhà cửa, vườn tược được thu vén gọn gàng. Các lu đựng nước đầy ắp. Quần áo cũ được giặt giũ và phơi nắng. Một nếp sống khác bắt đầu xuất hiện. Người làm thay đổi nếp sống ấy là người vợ đang "quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất". Cái âm thanh ấy, ngày thường Tràng cũng nghe nhưng chưa bao giờ gợi cảm như thế. Người vợ mới muốn quét mạnh tay để tạo ra những âm thanh rộn rã khẳng định sự có mặt của mình trong ngôi nhà.

Cảnh tượng đó đã khiến Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". Tràng là con, là chồng, Tràng có nhiều trách nhiệm hơn với ngôi nhà. Cái trách nhiệm, cái niềm vui của cuộc sống mới đã khiến cho Tràng có "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng" và "cũng muốn làm một việc gì để dự phần sửa lại căn nhà". Tất cả mọi người đều hiểu phải tiến gần nhau hơn?
Nhà văn Kim Lân: Cả ba đều ý thức thực sự về hoàn cảnh của mình. Tràng rõ ràng cảm thấy mình là chủ gia đình, là nơi nương tựa của hai người đàn bà. Cái khao khát muốn làm một việc gì để "dự phần tu sửa lại căn nhà" như một lời hứa của Tràng. Tràng cảm thấy "hắn nên người". Bà cụ Tứ thì "lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở" và bỏ sẵn gieo trồng một thứ gì đó trong vườn.

Trong ba người, người vợ lại ít được mô tả nhất. Tại sao?
Nhà văn Kim Lân: Thì thuận lòng làm vợ Tràng do hoàn cảnh nên luôn lặng im và khép nép. Sau đêm tân hôn, sau đêm trở thành một phần đời sống của gia đình này, thị bắt đầu tham gia vào công việc gia đình. Thị thay đổi, là "người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn" nữa. Thị thay đổi nhiều so với "mấy lần gặp ở ngoài tỉnh". Thị không buông xuôi theo cuộc sống nữa mà bắt đầu hoạt động để thu vén, tổ chức lại cuộc sống của mình. Người đàn bà thực thụ đã sống lại trong thị.

Mọi người đều có niềm vui, nhưng rõ ràng họ luôn cố gắng tìm cách quên đi thực tại. "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này". Bà mẹ muốn cho ngày đầu tiên này thật tốt đẹp. Người vợ thì quét chổi "sàn sạt". Tràng thì muốn "thu xếp lại cửa nhà". Nhưng họ càng cố gắng thì cuộc sống khó khăn càng hiện ra khủng khiếp hơn?
Nhà văn Kim Lân: Ở đây tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muốn thể hiện cuộc sống của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói. Cho nên cuộc sống đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp vợ chồng luôn bấp bênh. Ở đây có một ẩn ý: Cả ba người đều không quên thực tại và cố gắng của họ là tìm thấy niềm vui trong cuộc sống tối tăm. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi ăn chung mang ý nghĩa như bữa "tiệc cưới" tội nghiệp. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rồi và một đĩa muối ăn với cháo". Sự tồi tàn của bữa ăn tương phản với niềm vui của họ. Họ đều "ăn rất ngon lành" và "vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh". Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan ngoãn và nghe lời mẹ. "Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hòa hợp thế". Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ. Nhưng "tiệc cưới" kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo "lõng bõng". Màn cuối của bữa hoàn toàn phũ phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát ăn và "đưa lên mắt nhìn" rồi "hai con mắt thị tối lại" vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống mới. Nhưng thị đã "điềm nhiên và vào miệng". Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời của thị.

Nồi cháo đã đập tan không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. "Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Trong sách Văn học lớp 12 phần được trích giảng cũng dừng ở đoạn này. Câu văn dường như bóc nốt lượt cuối lớp vỏ bên ngoài của cuộc sống để cho cả ba thấy cái "đắng chát" cái nghẹn bứ trong cổ. Cuộc sống không báo hiệu một tia hy vọng nào?
Nhà văn Kim Lân: Thực ra với tứ truyện "Vợ nhặt", truyện nên kết thúc ở đây. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do điều kiện của tờ báo bấy giờ, truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai.

Thưa nhà văn, đoạn nào trong truyện là đoạn gây xúc động nhất cho riêng nhà văn?
Nhà văn Kim Lân: Phần gây xúc động nhất cho tôi là khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đây tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu truyện.

Đặng Thanh Hương (thực hiện)
 
Last edited by a moderator:
H

haiquynh.710

Mình xin post 1 số thông tin đc đọc -hi vong jđây là tài liệu tham khảo giúp mọi người hiểu hơn về tác phầm này :
Vợ nhặt của Kim Lân (Phần 1)


I. Tác giả nói về tác phẩm:

1. “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.

2. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau (…). Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.

3. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai.
II. Một số điểm lưu ý trong quá trình tiếp cận tác phẩm:

1. Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ:

Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm đầy ám ảnh của cái chết rình rập cuộc sống những người dân ở xóm ngụ cư. Không gian tối sầm vì đói khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay, thây người chết còng queo, người sống dật dờ, lặng lẽ như bóng ma. Cái đói hiện hình trên gương mặt một anh chàng vô tâm như Tràng , làm thay đổi diện mạo và thói quen cố hữu, đè nặng lên đôi vai, cái lưng gấu, dập tắt “nụ cười tủm tỉm”. Ngay cả những đứa trẻ cũng “ủ rũ”. Bầu không gian dự báo tai ương ập đến bất kỳ lúc nào. Ấy là những ngày đói Ất Dậu khiến những người đã qua năm 2000 “nhắc lại vẫn rùng mình” (Nam Cao).

Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tràng về làng cùng người đàn bà lạ mặt. Điều không bình thường hiện ra trên khuôn mặt “phớn phở khác thường” và nụ cười “tủm tỉm” trở lại trên môi Tràng. Điều khác lạ trong thái độ của Tràng thay đổi với đám trẻ con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện tạo ra sự tò mò ngạc nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc sống tăm tối đói khát nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường trực về cái đói và cái chết lấn át. Kim Lân đã đem đến cho người đọc cảm giác ái ngại, xót xa cho sự trớ trêu của số phận người nghèo trước thực tại khủng khiếp.Hạnh phúc thành hình trên nền cuộc sống tột cùng bi kịch, khi sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con đường duyên phận thành con đường rước thêm “cái của nợ đời” khiến những người biết nghĩ đều phả ithở dài ái ngại. Bóng tối mở ra mênh mông, mùi gây của xác người, tiếng quạ vẫn gào lên thê thiết. Nỗi bất hạnh dường như đang chờ ở phía trước.

2. Con đường về nhà Tràng - sự thay đổi trong tâm lý nhân vật:

Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước thường nhật của anh Tràng nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống mọi người. Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của riêng anh. Kim Lân đã khắc họa những chi tiết thật sống động về một gã trai được vợ “thích ý”, “cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình”. Cũng là tiếng “càu nhàu” nhưng khác hẳn với cái “càu nhàu” của người đàn bà cảm thấy sự hẩm hiu của thân phận, Tràng tỏ ra bối rối thật sự trước hạnh phúc đang được tận hưởng. Mọi cử chỉ thật buồn cười: “lật đật”, “nhìn ngang nhìn ngửa”, “như người xấu hổ chạy trốn”. Kim Lân đã lồng vào giữa cảnh đói khát những tiếng cười hóm hỉnh về một anh chàng có vợ để xua dần không khí đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh phúc giữa hai người.

Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã hiện lên trên “con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút”. Chỉ còn “tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn chân”. Đó là không gian dành cho những đôi lứa tâm tình. Nhưng Kim Lân hoàn toàn không có ý định thi vị hoá câu chuyện, bởi từ suy nghĩ đến lời nói, hành động của các nhân vật vẫn chập chờn những nỗi lo thường trực.
Chỉ “trong một lúc” ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lý giải được sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn Tràng, tạo mối dây ràng buộc hai con người khốn khổ lại với nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với Tràng, khoảnh khắc ấy vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm tỉm cười cùng anh, giúp anh “quên hết những cảnh sống ê chề, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Rõ ràng, đối với Tràng hạnh phúc không còn là sự vô tình ngẫu nhiên nữa. Nó giúp anh tự tin hơn, tự chủ được tình cảm của mình. Thiêng liêng thay phút ấy hai chữ “tình nghĩa”, như dự báo khả năng của con người từng bước vượt qua hoàn cảnh, tiếp sức cho con người vượt lên định mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối đồng cảm đầu tiên cho những người trước đó còn xa lạ.

Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ đối thoại và tiếng cười của những người trong cuộc. Câu chuyện giữa hai người mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã kéo hai con người khốn khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ ngàng khi đến lúc này thị mới quan tâm đến gia cảnh của Tràng. Vẻ ngờ nghệch của anh trai quê đã làm nên nụ cười “tủm tỉm” của người đàn bà. Kim Lân quả thật đã dụng công mô tả tiếng cười của từng nhân vật. Từ nụ cười “tủm tỉm” thường nhật của Tràng đến nụ cười “tủm tỉm” của thị đã có một ý nghĩa khác nhau. Để rồi niềm vui nhân lên, lan toả làm thành khoảnh khắc “bật cười” của Tràng khi ngộ ra bản thân, rồi cả âm vang “hì hì…” ý nhị và hài hước, cuối cùng bùng lên thành khoảnh khắc “hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách” rồi “phì ra cười” làm hiện rõ một anh Tràng đang ngập tràn vui sướng. Đó cũng là lúc họ nói với nhau bằng ngôn ngữ của vợ chồng, rất quê mùa nhưng cũng rất đáng yêu.

Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi họ chạm vào cái cổng nhà Tràng, bước vào “cái nhà vắng teo rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Sự thực nghèo khó phơi bày trần trụi khiến hạnh phúc bỗng trở nên chơi vơi. Tràng chỉ biết “cười cười” khoả lấp nhưng nỗi thất vọng đã hiện rõ, khi “thị nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Đến lúc này, thực tại buộccon người phải đối diện với nó, khiến con người không dám tự tin chính mình để làm nên hạnh phúc. Ranh giới hạnh phúc - bất hạnh thật mong manh khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị như nói lên tất cả nỗi tủi hổ, đắng cay của một kiếp đàn bà khốn khổ: “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Không ai báo trước được điều gì sẽ xảy đến trong mối quan hệ của hai con người đói khổ ấy. May mắn thay, giữa lúc đang “tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét”, “loanh quanh” rối bời ấy, Tràng vẫn còn “tủm tỉm cười” được. Dẫu sao anh cũng đã có những phút giây để được sống trong hạnh phúc. Dẫu cho hạnh phúc ấy đang có nguy cơ tuột khỏi tầm tay như một trò đùa của số phận, tràng vẫn còn cảm giác được một cách đầy đủ về ý nghĩa thiêng liêng của bước ngoặt đời mình: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Khi ý thức được nhen lên, chắc chắn con người có đủ dũng khí để vượt lên hoàn cảnh, không để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay.
 
H

haiquynh.710

VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN (Phần 2)
3. Người vợ nhặt:

Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với Tràng không phải là nàng tiên hạnh phúc. Câu chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ quả thật là một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ, duyên phận buộc ràng. Kim Lân đã tạo nên những ấn tượng thật khó quên về thị - một kẻ không tên, không tuổi, không nhà, không lai lịch – như một nạn nhân cùng cực đáng thương của cái đói và miếng ăn.

Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng ăn trong cuộc sống người dân cùng trước cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tố đã để nước mắt chị Dậu rơi lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm chó (Tắt đèn). Nam Cao khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức hủy diệt của cái đói - miếng ăn với nhân tính trong bao truyện ngắn đầy nước mắt xót thương của ông (Lão Hạc, Một bữa no). Kim Lân trở về với đề tài hiện thực cũ, đã dựng nên một tình huống bi hài có một không hai: bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng.

Để kiếm miếng ăn, thị dường như đã đánh mất tất cả sự dịu dàng kín đáo thùy mị của người phụ nữ. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên, thị đã nhảy xổ vào Tràng với tất cả vẻ “cong cớn”, “ton ton” và ỡm ờ “liếc mắt, cười tít” với gã trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung cụ thể hoá cảnh “trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau”. Lần thứ hai, thị xuất hiện với bộ dạng thật thê thảm và cung cách thật khó ưa. Cái đói ghi dấu ấn trên “áo quần rách tả tơi như tổ đỉa”, dáng vóc “gày sọp đi” và “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Đáng sợ hơn, nó không chỉ biến đổi nhân dạng mà còn lấy mất của thị lòng tự trọng, tính sĩ diện cần thiết ở một con người. Nó làm cho thị trong lời nói “sưng sỉa, cong cớn” qua lời nói “đon đả” chẳng còn một tư cách người nào. Tràng thành chiếc phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn là sống, không ăn là chết. Ranh giới sự sống – cái chết đã không cho thị quyền chọn lựa. Thị trở thành hiện thân của con người bản năng
Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn sàng theo không kẻ cho ăn về làm vợ, chi tiết ấy khiến người đọc thương hại thay cho chị. Nhân phẩm đã mất, dường như thị đã biến thành nô lệ của miếng ăn, bởi sau bữa ăn vội vàng thô tục ấy thị còn tiếp tục cùng Tràng “Ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê:. Ấy vậy mà tuyệt nhiên nhà văn không để bộc lộ một mảy may thái độ phản ứng nào của Tràng trước những việc làm đáng khinh của thị, nên đọng lại trong ta một cái nhìn đầy thương hại cho thị mà thôi. Phải đến khi xuất hiện trong xóm ngụ cư, thị mới hiện lên với đầy đủ tâm trạng, mặc cảm về thân phận vợ nhặt. Số phận của thị đã ngoặt sang ngõ rẽ mới sau tiếng tặc lưỡi: “Chặc, kệ” của Tràng. Nhưng cuộc sống tương lai quá mơ hồ với thị. Trái ngược với Tràng, thị bước đi trong dáng “Đầu hơi cúi xuống”, “rón rén, e thẹn”, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Bởi thị sợ những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra sự thật phũ phàng về thân phận vợ nhặt. Đến lúc chỉ còn hai người với nhau, thị cũng không giấu nổi ánh nhìn “tư lự”. Ám ảnh thân phận thực sự rõ nét khi thị đã ở trong nhà Tràng, khi đứng trước một hiện thực đáng thất vọng. Kim Lân đã đặc tả vào thái độ của thị như gợi tả bao suy tư sâu sắc về kiếp người trong nhữg ngày đói quay quắt. Cái nghèo gặp cái eo, báo cho họ biết những ngày túng đói đe doạ. Nếu vấn đề của Tràng quẩn quanh trong mong ước tạo nên hạnh phúc bền lâu thì vấn đề của thị lúc này là vượt lên nạn đói. Không có bất cứ một tín hiệu nào bảo đảm cả hai người sẽ vượt qua thử thách của chính mình. Sự chờ đợi thật nặng nề, căng thẳng. Thị đã dễ dàng đến với Tràng thì thị cũng dễ dàng bỏ đi. Nhà văn đã kéo dài khoảnh khắc ấy để giúp người đọc hình dung, giả định những khả năng sẽ xảy đến cho nhân vật, để có những suy ngẫm cảm thông, ngậm ngùi cho thân phận con người trong hoàn cảnh trớ trêu.

. Cuộc gặp gỡ của ba người khốn khổ:

Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào bức tranh ảm đạm của cuộc sống nghèo khổ, đói kém. Vẻ lam lũ in hình trên dáng đi “lòng khòng”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”. Trong những lo toan của người mẹ, hẳn sẽ không có dự tính nào cho hạnh phúc của con trai trong thời điểm cùng cực đói này. Bởi vậy thái độ của Tràng làm bà ngạc nhiên một thì sự xuất hiện của người đàn bà lạ làm bà ngạc nhiên mười. Sự thực như một ảo ảnh để bà không thể hiểu nổi. Dầu đã có lời chào nhưng lại làm bà rối bời “băn khoăn”. Vì hơn ai hết bà hiểu cảnh nhà, hiểu hoàn cảnh con mình không mong có được vợ trong cả lúc yên hàn chứ chưa cần nói đến tao đoạn trần ai này. Nhà văn đã dồn bút lực mô tả phút chờ đợi căng thẳng của đôi vợ chồng mới làm bạn với nhau để người mẹ định đoạt duyên kiếp. Thời gian như kéo dài thêm cùng tâm lý đợi chờ. LẠi càng dài hơn khi bà cụ “cúi đầu nín lặng” sau khi hiểu ra cớ sự.

Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm trạng mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn thấy bóng dáng bao bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ. Những xung đột bi kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được hoá giải phần nào bởi tình thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Không khí im lặng u uất bao trùm lên ngôi nhà, tâm tư bà cụ cũng ngập tràn ám ảnh đầy bóng tối: cái đói, cái chết, cái nợ đèo bòng chất thêm gánh nặng. Định mệnh như cười cợt với hạnh phúc, nụ cười của thần chết. Nhưng không thể thắng được một niềm tin của những người chưa tắt hy vọng về tương lai. Nó là cái tâm lý quen thuộc của những người nghèo khổ, thường tự an ủi mình:

Chớ than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc, còn chồi lên cây

Tiếng nói đòi quyền sống mãnh liệt ấy đã thôi thúc làm nên quyết định rất “nhẹ nhàng” trong lời nói của bà cụ Tứ “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Hạnh phúc đã vượt qua lực cản đầu tiên.

Nhưng cuộc sống thực không hề nhẹ nhàng, vẫn bộn bề chồng chất nỗi lo. Bản thân bà cụ cũng nén chịu vào lòng nỗi đau của riêng mình, đặt vào miệng những lời an ủi nàng dâu mới nhưng “bóng tối trùm lấy hai con mắt bà lão”. Trong khoảnh khắc, quá khứ tủi cực dồn về cùng suy nghĩ cho tương lai dâu – con. Điều cảm động là tình thương ấy đã xoá nhoà khoảng cách “mẹ chồng nàng dâu” nhưng cách cư xử của bà cụ Tứ vẫn còn là sự chịu đựng, chấp nhận hoàn cảnh, chưa phải là sức mạnh để vượt lên hoàn cảnh. Mỗi một lời thân mật với “”nàng dâu mới” chứa đựng bao nỗi niềm u uất để rồi “bà cụ không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bóng tối vẫn mênh mông.

Kim Lân đã để vào chính lúc ấy, Tràng “đánh diêm đốt đèn”. Chính nhà văn đã nói về ngọn đèn xua tan bóng tối này: “Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ” (Tác giả nói về tác phẩm). Đó là ánh sáng của hy vọng, của quyết tâm tạo dựng cuộc sống mới. Một lần nữa, Kim Lân lại để cho đôi vợ chồng mới còn lại riêng với nhau, trong “ánh đèn vàng đục ở góc nhà toả ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách”. Nhưng lần này, không chỉ có tiếng họ thầm thì trò chuyện mà còn cả “tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Hạnh phúc mới phải đối mặt với thực tại cuộc sống những ngày tới của lứa đôi và đêm tân hôn ấm áp tình người đã chống chọi với “tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Đó là hạnh phúc đòi hỏi con người phải sát lại bên nhau để vượt qua buồn thương số phận, cái đói và cái chết.
)
 
H

haiquynh.710

5. Ngày mới:

“Ánh nắng buổi sáng mùa hè” đến với Tràng sau đêm tân hôn màu nhiệm đã giúp anh nhận ra tất cả sự “thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Dù ở trong trạng thái “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” nhưng bước ngoặt cuộc sống của Tràng là sự thực mà chính anh là người hiểu rõ nhất. Đẹp làm sao những cảm xúc của Tràng về tổ ấm của chính anh, gắn với viễn cảnh tương lai sáng sủa như không gian đầy nắng kia. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, nguồn hạnh phúc tạo nên từ mối ràng buộc tình cảm và trách nhiệm của Tràng với mẹ, với vợ đã đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao hơn cho Tràng. Anh ý thức rõ hơn bao giờ hết quyền được sống làm người, quyền sống của con người. Chính anh chứ không phải ai khác sẽ bảo vệ đến cùng quyền lợi chính đáng ấy.

Ngày mới đến với thị cũng thật khác lạ, làm nên vẻ đẹp của một cô Tấm bước ra từ quả thị trong cổ tích. Hạnh phúc mới đã trả lại cho chị vẻ “hiền hậu đúng mực” và chính bàn tay từng đẩy chiếc xe bò duyên phận, bàn tay quệt đũa ngang miệng, hôm qua đã sắp đặt, sửa sang nhà cửa gọn gàng sạch sẽ. Bàn tay ấy “đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Âm vang giản dị, bình thường ấy báo hiệu sự hồi sinh, sức sống mới trở lại trong tâm hồn chị. Tưởng chừng mọi nỗi lo đã được giải toả khi ngày mới bắt đầu, ngay cả “bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.

Nhưng hình ảnh “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” đã cho ta biết tất cả mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống mới của gia đình Tràng diễn ra trên nền hiện thực còn nguyên mối đe doạ. Lùm rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo, câu chuyện giữa mẹ, con, dâu toàn niềm vui. Không khí “đầm ấm hoà hợp” bỗng ngừng lại khi miếng ăn hết nhẵn. Khoảnh khắc ấykhiến người đọc có thể chạnh lòng nhớ không khí truyện “Nửa đêm” của Nam Cao. Cũng vui vẻ đầm ấm ban đầu, sau hạnh phúc vỡ tan, để lại cay đắng, cùng cực cho một bà lão suốt đời “tu nhân tích đức”. Liệu bà cụ Tứ, Tràng, thị có lâm vào nghịch cảnh đầy bi kịch như vậy không? Kim Lân đã để các nhân vật chống chọi hoàn cảnh ấy mỗi người một cách, tranh đấu quyết liệt với cái đói chết người để bảo vệ quyền sống, hạnh phúc họ vừa có được. Người đọc sẽ lặng đi khi nhìn vào miếng ăn của họ - “chè khoán” của bà cụ Tứ. Người mẹ tội nghiệp ấy đã làm mọi việc có thể để cứu vãn tình thế, ngay cả khi nói rõ là cám vẫn cố đánh lừa cảm giác bằng tiếng cười rặn ra và lời khen “ngon đáo để”. Người vợ nhặt đã nhận ra sự thực, dẫu “hai mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Thị thật đáng thương vì cuộc đời chị cũng sẽ không còn lối thoát nào khác. Tình người thật đáng quí để chị chấp nhận hoàn cảnh ăn miếng ăn của loài vật này. Chỉ có Tràng cảm nhận rõ nhất vị cám “đắng chát và nghẹn bứ”. Dường như khoảnh khắc ấy đã bùng lên sức mạnh phản kháng trong anh. Nhưng bị bủa vây trong vòng cùng quẫn, những con người ấy đã bắt đầu “tránh nhìn mặt nhau”, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”. Sức mạnh tố cáo tội ác huỷ diệt sự sống của kẻ thù Pháp - Nhật trong câu văn thật thấm thía trong phút câm lặng đột ngột này. Nhưng có thể nhận ra lúc ý thức rõ nhất về hoàn cảnh cuộc sống bên ngoài tác động, họ tránh nhìn nhau không phải vì sợ hãi, cũng không phải chuẩn bị cho ánh mắt nhì nnhau đầy thù hận mà tủi hờn chất chứa trong lòng sẽ giúp họ cùng nhìn về một hướng giải thoát khỏi cuộc sống lầm than, hướng đến sự sống, tương lai sẽ khác hơn.

Kim Lân dựng lên đoạn cuối câu chuyện khi những người cùng khổ này nói về “Việt Minh” và hình ảnh đoàn người đói cùng lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong óc Tràng, bởi điều kiện khách quan tác phẩm hoàn thành sau cuộc cách mạng long trời lở đất của dân tộc lật nhào bộ máy hủy diệt của kẻ thù dân tộc, trả lại hạnh phúc tự do thật sự cho con người. một kết cục làm rõ tư tưởng của tác phẩm là cần thiết để câu chuyện thoát khỏi lối mòn bi kịch của văn học hiện thực trước cách mạng viết về những nạn nhân đáng thương bị đè bẹp bởi hoàn cảnh. Nhưng theo sự phát triển của tình huống truyện, dẫu kết cục là nỗi tủi hờn vẫn hàm chứa trong đó sức mạnh phản kháng của những con người từng bước ý thức và làm chủ hoàn cảnh, vượt lên số phận. đó cũng chính là điểm khác biệt về nhân vật điển hình trong văn học sau 1945 với văn học trước đó.

Kim Lân đã ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân hậu, đem đến những cảm nhận mới mẻ về con người và khơi dậy sức mạnh tình thương giúp con người vượt qua tất cả trở lực của cuộc sống và bản thân họ. Tác phẩm ấm lòng ta bởi niềm tin vào con người tuyệt đối ./.

(Nguồn;Cườngvăn)
 
Top Bottom