Môn học khác Nền giáo dục của nước ta

Khánh huyền NT

Học sinh
Thành viên
27 Tháng chín 2018
45
34
21
19
Nghệ An
Trung học cơ sở Thị Trấn Quán Hành
Thực trạng chất lượng giáo dục Việt Nam hiện nay

Lý luận

Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước như vậy?
– Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.
– Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xă hội.
– Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Hiểu được điều này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia rất coi trọng sự phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây dựng nền giáo dục thực sự vững mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những năm qua Đảng và nhà nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục Việt Nam.
Hơn nửa thế kỷ qua nền giáo dục Việt nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đại học đã đào tạo bài bản và cung cấp cho đất nước một đội ngũ cán bộ đông đảo có trình độ đại học, trên đại học đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, cũng như yêu cầu của sự hội nhập khu vực và thế giới trên mọi lãnh vực. Với quan điểm “Đầu tư cho giáo dục là quốc sách”, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều nghị quyết về phát triển giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ khẳng định tầm quan trọng, định hướng cũng như xác định mục tiêu, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ và Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra nhiều mô hình đào tạo đại học. Do vậy, tốc độ tăng của giáo dục và đào tạo đại học tăng nhanh. Hiện trên cả nước có khỏang gần 90 cơ sở đào tạo đại học bao gồm các trường đại học quốc gia, đại học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học viện. Tới đây sẽ có thêm một số trường đại học tư thục ra đời. Lực lượng giảng viên không ngừng nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể (tăng khoảng 15 lần so với 20 năm trước) và do đó làm cho trình độ dân trí tăng lên rõ rệt. Thành tích trên là đáng trân trọng và tôn vinh. Mặc dù như vậy, nhưng chất lượng giáo dục của Việt Nam vẫn chưa cao, nói một cách nom na là số lượng thì tăng rất nhanh nhưng chất lượng vẫn không tăng thậm chí là còn tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới. Như vậy những quan tâm và đầu tư của nhà nước đã thật sự đúng cách và đúng chỗ ?
Nội dung đề tài này sẽ xoay quanh những bất cập của nền giáo dục Việt Nam về thưc trạng, về những nguyên nhân làm cho nền giáo dục Việt Nam chưa theo kịp với bè bạn quốc tế từ đó đề ra hướng giải quyết cho những khó khăn của ngành giáo dục Việt Nam hiện nay, và những yêu cầu cải cách đổi mới để thực hiện nhiệm vụ của ngành giáo dục.
Vận dụng

Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện hành.

– Hiện nay có khuynh hướng đề cao khái niệm “đại học quốc tế chất lượng cao”, cơ bản xây dựng đại học tốt là điều kiện“cần có”, nhưng điều kiện “đủ” là chúng ta phải có bản thân sinh viên là những hạt giống tốt, nhân tố tốt. Rõ ràng lâu nay giáo dục Việt Nam cũng chỉ lo đào tạo số lượng sinh viên đầu ra mà quên đi vấn đề quan trọng là thế hệ thanh niên thật sự đóng góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển đất nước. Hàng loạt kỹ sư, cử nhân Việt Nam ra trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành nghề mình đã học, đó là một sự lãng phí lớn. Thậm chí ngày nay học sinh, sinh viên chỉ lo đạt bằng TOEFL này, TOEIC kia nhưng chính tiếng Việt lại sử dụng không chuẩn. Trong khi cha ông ta ngày xưa số lượng ông Cử đếm trên đầu ngón tay nhưng đào tạo người nào ra người nấy. Họ không chỉ thông thạo ngoại ngữ mà còn giỏi thơ văn, rành văn hóa nước nhà. Vì sao lại có nghịch lý như thế? Hiện nay chúng ta cũng không có một ngành thống kê thực tế phục vụ nghiên cứu chính sách. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế chỉ là điều kiện“cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung không cân bằng vào các ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao phát triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước? Việt Nam muốn phát triển nền khoa học kỹ thuật thì phải đào tạo khoa học kỹ thuật trên bình diện rộng.
– Nền giáo dục chúng ta có thể xem như đang mắc bệnh mà không chữa trị, đua nhau nhồi nhét học thuộc lòng theo sách vở để có điểm cao mà sách chưa chuẩn, năm nào thi cử cũng gian lận, đề thi sai, trẻ con thì bị bỏ mặc lang thang trên đường phố, ma túy trong học đường, ý thức công dân rất kém. Càng nói càng thấy nguy cơ, nhưng không thấy xã hội thật sự quản ngại vì bao nhiêu năm rồi chưa thấy biện pháp giải quyết, chỉ nghe được những hứa hẹn cải cách. Giáo dục Việt Nam muốn phát triển phải giải phẫu đúng bệnh. Bệnh chẩn đoán đúng nhưng không chịu giải phẫu làm sao chữa trị? Thực tế, các cơ quan chức năng đều nhận thấy hết căn bệnh giáo dục nước nhà. Trong các cuộc hội thảo, hầu như mỗi vấn đề đều đã được phân tích, đã chỉ ra cái đúng cái sai nhưng điều lạ lùng là nó không được đúc kết để đưa vào thực hiện thực tế. Tình trạng “nói” nhưng không “làm” là căn bệnh nan giải nhất của hầu hết nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội chứ không phải của riêng ngành giáo dục Việt Nam.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
– Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
– Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
– Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
– Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối.
– Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.
– Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng lực của một bộ phận còn thấp.
– Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ phương châm.
– Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
– Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo – quản lý, những nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
Nguyên nhân

(1). Về phía người dạy
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thời gian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. Đời sống của ngưới Thầy còn nhiều khó khăn : Hiện nay giáo viên đang được hưởng mức lương thuộc nhóm cao, nhưng thực tế xã hội ta hiện nay không sống bằng lương , các ngành khác lương thấp nhưng cuộc sống thoải mái hơn nhiều. Đây là vấn đề cần phải xem lại chính sách lương bổng của chúng ta đối với thầy cô giáo. Nếu chúng ta thử tính một gia đình nhà giáo , hai người dạy học, có hai con đúng tiêu chuẩn, nếu họ là nhà giáo chân chính, chuyên tâm dạy học thì với đồng lương của họ nuôi con đi học tới lớp mấy ?
(2). Về phía người học
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học cho qua “học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước.
(3). Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tiễn.
(4). Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng cấp
Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào tạo đại học mà nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và cơ chế quản lý chưa phù hợp đã tạo những “Sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp làm việc vừa kém về năng lực nhận thức, tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học, xã hội không thừa nhận và rồi “Sản phẩm” của giáo dục đào tạo đại học không có chỗ đứng trên thị trường, người học xong đại học khó hoặc không tìm được việc làm.

-Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từng bước thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáo dục toàn diện cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạy kiến thức, nặng về lý thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho học sinh .
Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước : Sự phát triển kinh tế của đất nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam phát triển , hiện nay chúng ta có một xã hội học tập, người người đi học, gần 30 triệu học sinh các cấp là một con số khổng lồ, qua các kỳ thi đại học ta thấy có sự chen chúc nhau quá mức, các trung tâm luyện thi, các thầy giáo dạy thêm, học thêm, học sinh cố học để tìm kiếm một trường học thích ứng. Khi một đất nước có tốc độ phát triển khá cao và đều đặn như hiện nay, các nhà quản lý giáo dục phải có biện pháp đón đường , dự kiến những nhu cầu của ngành, của nhân dân, của học sinh để có những biện pháp thích hợp.
– Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay ngành giáo dục các địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn là chịu tác động hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạy học, thi cử đúng như quy chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thi rớt nhiều, lưu ban nhiều thì địa phương sẽ có ý kiến , thậm chí có những ý kiến chỉ đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để phát triển trong cơ chế quản lý giáo dục hiện nay.
Đánh giá – nhận xét

Việt Nam trên trường quốc tế

Có lẽ chưa bao giờ đề tài giáo duc được đem ra bàn luận nhiều như thời điểm hiện tại. Nguyên nhân trực tiếp có lẽ là từ giải thưởng toán học Fields của giáo sư Ngô Bảo Châu, một « hiện tượng » mới đang chiếm đa số trên các mặt báo của Việt Nam và cả quốc tế. Từ chuyện gốc gác đến giá trị nền tảng mà anh thừa hưởng, từ chuyện riêng, đời tư đến tầm ảnh hưởng chính trị quốc gia…vẫn đang là những đề tài tranh luận sôi nổi của giới chuyên môn. Tuy nó chưa đến hồi kết, nhưng rất nhiều người đã lấy làm tự hào về nền giáo dục Việt Nam từ sự kiện này. Một thái độ cần được xem lại, cần được soi chiếu với một thực trạng mà các chuyên gia nước ngoài gọi là « khủng hoảng trầm trọng về giáo dục ». Chúng ta sẽ nhìn lại vấn đề này qua các số liệu thống kê từ các diễn đàn, cũng như các báo cáo khoa học chính thức trong thời gian gần đây.
Trong bảng xếp hạng thứ tự các trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế từ trước đến nay thì Việt nam chưa có lấy một đơn vị góp tên trong « top 200 ». Mới đây nhất, năm 2009, người ta công bố 100 trường đại học nổi tiếng trên thế giới, Việt nam vẫn là một « hành tinh » chưa ai nghĩ đến, trong khi Nhật bản có đến 4 trường trong các vị trí khác nhau, Singapo, Hàn quốc, Trung Quốc đều là những quốc gia góp mặt ở những vị trí đáng tự hào.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 376 trường đại học, với khoảng 6600 giáo sư và phó giáo sư. Tuy nhiên theo ông tổng thư ký hội đồng chức danh giáo sư, nếu đánh giá đúng theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt nam chỉ có khoảng từ 15 đến 20% có trình độ tương ứng với chức danh đó. Còn lại không chỉ thấp mà hơn dưới 1/3 rất thấp.
Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ thi trượt đại học nhiều nhất thế giới. Hiện nay chỉ có 1/10 người ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh. Tuy nhiên, quốc gia này đang được xếp vào những nước có tỷ lệ dân số đạt trình độ đại học trở lên thấp nhất của khu vực và trên thế giới. Ngay các nước láng giềng cũng đang phấn đấu để đạt được tỷ lệ tuyển sinh đại học là 60 – 80% hoặc cao hơn nữa, trong khi chúng ta mới chỉ đạt được khoảng 10 – 15%.
25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc và hầu hết là các môn này nhằm mục đích tuyên truyền chính trị.
Việt Nam là một trong những quốc gia còn sót lại của nền giáo dục đại học dưới sự quản lý chặt chẽ từ trung ương, thiếu sự tự quản đến mức khó hiểu. Sự bất cập này không những ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn của đội ngũ giảng dạy mà còn cả các tiêu chuẩn xây dựng cơ sở vật chất.
Mỗi năm có khoảng 20000 sinh viên ra trường và chỉ 50% được đáp ứng việc làm, trong đó chỉ 30% đúng nghành nghề. Dĩ nhiên chúng ta chưa nói đến chất lượng và thực tế chuyên môn của tầng lớp mà người ta gọi là tri thức, là bộ mặt của đất nước.
Trong một cuộc sát hạch, đánh giá của Intel để tuyển dụng 2000 sinh viên công nghệ thông tin, chỉ có 90 ứng sinh, nghĩa là 5% vượt qua kiểm tra, và trong số đó chỉ có 40 người đủ khả năng tiếng anh theo yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận, đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.
Trong 10 năm từ 1996 đến 2005 chỉ có 3456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp san quốc tế. Nếu đem so sánh với con số giáo sư và phó giáo sư thì trung bình mỗi vị chỉ có 0,58 bài báo cáo trong vòng 10 năm. Không những ít so với quốc tế và so với các nước trong khu vực, Việt Nam cũng đứng vào loại bét nhất : chỉ bằng 1/5 so với Thái lan ; 1/3 Malaysia ; 1/14 Singapo ; thậm chí thấp hơn cả Indonésia và Philippin.
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam thấp hơn một bậc so với nước ngoài. Theo một giảng trình viên của cuộc hội thảo về toán lý hóa : « trình độ của sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam chỉ bằng chương trình đại cương của đại học nước ngoài, cao học bằng đại học và tiến sĩ bằng cao học ».
Việt nam là nước có tỉ lệ « giả tri thức, tiến sĩ giấy, giáo sư dỏm » nhiều đến mức không dám công khai điều tra vì sợ « không có người làm việc ». Việc lấy bằng cấp không biết dễ hay khó, nhưng có lẽ Việt nam là nước duy nhất trên thế giới có ý định đòi 100% cán bộ cốt cán phải có bằng tiến sĩ ở thủ đô Hà Nội.
Có thể nói giáo dục Việt Nam đang thực sự khủng hoảng, mà nói như các chuyên gia của đại học Harvard thì nó đã đến mức trầm trọng. Người ta vẫn thường mượn đến cái danh của những cá nhân kiệt xuất để che đậy cho một thực trạng yếu kém đến mức báo động. Một cách làm chẳng giống ai, khi cứ tâng bốc rồi « bắt quàng làm họ » trong lúc công trạng lại là của kẻ khác. Người Việt Nam nên vui khi có những con người làm rạng danh đất nước như nghệ sĩ Piano Đặng Thái Sơn, như bộ trưởng bộ y tế Đức Philipp Roesler, như giáo sư Ngô Bảo Châu…Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh đồng họ với nền giáo dục Việt Nam, vì những con người này đều trưởng thành từ một nền giáo dục hiện đại ở nước ngoài. Chúng ta cũng không nên ngủ quên vì những lời tán tụng trong khi nền giáo dục của mình vẫn đang ở bậc thấp, đang mò mẫm trong mờ mịt của những bước đi sai lầm. Có lẽ sẽ sáo rỗng khi nhắc đến hai từ « cải cách », nhưng đó vẫn là điệp khúc cần lặp lại để hy vọng vào một tương lai sáng sủa hơn cho giáo dục nước nhà.
Giáo dục Việt Nam chưa sát với thực tế “Học không đi đôi với hành”

Nhìn chung giáo dục Việt Nam chưa thực sự sát với thực tế, sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường đại học chưa hẳn đã có việc làm, dường như GD chưa đáp úng được những đòi hỏi của xã hội. Sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp các trường đại học ra thường phải học thêm một số chương trình mà bên tuyển dụng yêu cầu, vì họ cho rằng cái mà sinh viên học được ở trường lớp chỉ đa phần là lý thuyết suông, chưa thể áp dụng vào thực tế.
Những con số “đáng sợ” sau là minh chứng cho những bất cập của Giáo dục Đào tạo Việt Nam:
Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình.
Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học;
Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;
Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập.
(Theo một nghiên cứu mới đây về phong cách học của sinh viên của PGS.TS Nguyễn Công Khanh (2008, được trích trong Mai Minh, 2008)
Như vậy, các trường đại học ở Việt Nam muốn nâng cao chất lượng thì phải chú trọng thay đổi 3 vấn đề chính được đề cập ở trên. Những thay đổi này cần sự nỗ lực từ nhiều phía: Bộ Giáo dục, nhà trường, giảng viên và sinh viên. Biết rằng việc thực hiện rất khó khăn và phải mất một khoảng thời gian dài nhưng phải làm ngay vì nhà nước đã mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào giáo dục và khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo theo nhu cầu xã hội. Điều này tạo ra sự cạnh tranh trong Giáo dục-Đào tạo, các trường đại học phải tự đổi mới nâng cao chất lượng để tạo uy tín và thương hiệu cho mình.
Trao đổi với GS Nguyễn Minh Thuyết, thầy cho biết:
– Hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm được nhiều nhà khoa học cho là không phù hợp, cần rút ngắn. Là người tham gia biên soạn sách giáo khoa, giáo sư chia sẻ với quan điểm này như thế nào?
– Xét hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất nước, kéo dài đến 12 năm học phổ thông là không phù hợp, lãng phí. Phần lớn các em học hết 12 năm rồi thì vẫn quay về lao động chân tay bình thường. Để được đào tạo nghề, các em lại phải đi học nghề. Trong khi đó, nếu xác định học nghề từ đầu thì chỉ cần học hết lớp 9, không cần đến hết 12.
Tất nhiên, đã học thì cái gì cũng bổ, như học toán, nhưng học đến lớp 9 là đã đủ rèn tư duy, không cần đến các kiến thức toán nâng cao. Với một gia đình bình thường, bớt một năm nuôi con đi học là bớt được món tiền cực lớn, đó là chỉ tính đóng góp bình thường chứ chưa kể “tiêu cực phí”.
– Theo giáo sư, chương trình phổ thông rút ngắn bao nhiêu thì hợp lý?
– Tôi đã đưa ra đề xuất giảm bớt một năm học, theo cơ cấu “9 + 2”. Hệ thống giáo dục bắt buộc của mình là 9 năm, đây là chương trình phổ cập, ai cũng phải học và dần dần nhà nước phải miễn học phí. Sau 9 năm, thay vì học 3 năm THPT như hiện nay với đầy đủ các môn, thì bậc học này để cho học sinh tự chọn học các môn phù hợp với tương lai. Đây là 2 năm để định hướng, trên thế giới, nhiều nước cũng đã đi theo hướng này.
Thêm nữa, thanh niên Việt Nam hiện trưởng thành sớm hơn thế hệ trước, học hết 11 năm tức là đã 17 tuổi. Ở tuổi này, thanh niên đã có nhận thức xã hội tốt và làm việc được. Đây cũng là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển và phải chịu trách nhiệm về các hành vi.
Thực tế các trường trung học hiện cũng chỉ dạy đến 11 năm, vì sau lớp 11, học sinh chỉ học các môn thi đại học. Chúng ta cũng cần nhìn nhận lại việc các thế hệ trước đây học 11 năm, thậm chí thế hệ kháng chiến chỉ 10 năm nhưng vẫn sản sinh ra rất nhiều giáo sư, tiến sĩ giỏi.

Giải pháp

Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài ” . Theo công bố của chương trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ) năm 1993 về chỉ tiêu quy mô phát triển giáo dục thì so với quốc tế ta đều thấp hơn về chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học. Về giáo dục phổ thông, ta chưa đạt mức trung bình, về cao đẳng đại học ta còn thấp hơn nước phát triển chậm. Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra chúng ta cần tích cực thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục :
(1)- Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Trên thế giới và trong khu vực hiện nay tỷ trọng ngân sách giành cho giáo dục – đào tạo rất cao, chúng ta do điều kiện đất nước còn nghèo , nguồn cung cấp ngân sách cho giáo dục- đào tạo còn hạn chế, đang phấn đấu để đạt con số 15 % và sau đó cần phải tăng hơn nữa . Ngoài ngân sách nhà nước hiện nay chúng ta đang huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục để tăng nguồn lực cho giáo dục đào tạo . Hiện nay có nhiều nước trên thế giới coi giáo dục là một ngành kinh doanh, kinh doanh công nghệ dạy học, chúng ta nên tạo điều kiện kêu gọi họ tham gia xây dựng cơ sở vật chất và nội dung chương trình giáo dục cho ta. Ngoài ra ta nên có chủ trương cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề đào tạo.
Tăng lương giáo viên

Hiện nay, với thang bảng lương đang áp dụng, ngành GD thật khó để thu hút được đội ngũ giáo viên giỏi. Bởi nhìn vào điểm chuẩn đầu vào của các ngành sư phạm tại các trường ĐH năm 2012, người ta không khỏi giật mình.
Tại ĐH Đà Nẵng, điểm chuẩn ngành sư phạm Vật lý là 14,5 điểm, ngành sư phạm Tin học là 13 điểm. ĐH Tây Bắc, điểm chuẩn ngành sư phạm Toán là 14 điểm, sư phạm Vât lý là 13 điểm. Như vậy, chỉ cần trung bình mỗi môn thi từ 4,5 đến 5 điểm là các bạn trẻ của chúng ta đủ tiêu chuẩn bước vào giảng đường ĐH. Đầu vào là thế, vậy ta thử nghĩ xem liệu đầu ra (sau 4 năm học tập) của số sinh viên này như thế nào? Phải chăng 4 năm ĐH sẽ giúp các sinh viên này cải thiện rõ rệt về chất để trở thành những giáo viên có đủ tự tin đứng trên bục giảng truyền đạt lại kiến thức cho học sinh?
Trong khi đó điểm đầu vào của ĐH Ngoại thương Hà Nội năm 2009, đối với ngành Kinh tế đối ngoại (khối A) là 26,5 điểm. Tương tự ngành thấp nhất, điểm trúng tuyển cũng đã là 23,5 điểm. ĐH Kinh tế Quốc dân điểm trúng tuyển thấp nhất của khối A là 22,5 điểm. Tại sao lại có nghịch lý này?
Đơn giản, bởi khi ra trường một sinh viên học về kỹ thuật, hay thương mại, kinh tế nếu làm cho một doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng có thể có mức lương khởi điểm từ 3 – 4 triệu đồng/tháng, và may mắn hơn nếu được làm cho các tổng công ty, tập đoàn lớn hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mỗi tháng bình quân có thể thu nhập từ 6 – 10 triệu đồng, thậm chí hơn nữa. Với mức lương tháng đó, nhìn vào thang bảng lương giáo dục, người thầy không khỏi chạnh lòng.
Bởi vì, một giảng viên có thâm niên 10 năm kinh nghiệm tại các trường ĐH lớn của Việt Nam cũng không thể có được mức lương ngang bằng một sinh viên vừa tốt nghiệp ĐH, làm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. So sánh nhỏ này cho thấy chừng nào chúng ta chưa cải cách hệ thống thang bảng lương ngành GD, chừng đó chúng ta vẫn không thể có được đầu vào tốt cho ngành sư phạm.
Xét về mặt kinh tế, chi phí chúng ta đánh mất trong tương lai cho vấn đề này sẽ còn cao hơn rất nhiều so với việc tăng lương cho giáo viên. Vì một giáo viên kém ảnh hưởng đến hàng trăm người, và thậm chí ảnh hưởng đến cả nhiều thế hệ. Như vậy, phải tăng lương thì ngành GD mới có cơ hội chiêu mộ được người tài.
(2)- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội dung sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn , nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam. Tổ chức cho sinh viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ đặc biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để người học phát triển khả năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số các phương phương pháp, chúng ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả ở những trường, đơn vị chưa áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Ví dụ:
Phương pháp học theo dự án (Project Based Learning)

Đây là mô hình học tập có nhiều khác biệt so với mô hình học tập truyền thống. Phương pháp học theo dự án yêu cầu các hoạt động học tập phải được thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài và liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật. Đây là mô hình lấy người học làm trung tâm và hòa nhập với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Mục tiêu của phương pháp học theo dự án là để học viên học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là tìm ra những câu trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra. Phương pháp này yêu cầu học viên cộng tác với các bạn trong lớp trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết những vấn đề và cuối cùng trình bày công việc mình đã làm trước giảng viên và các học viên khác. Phương pháp này cũng đòi hỏi các học viên phải đặt câu hỏi, đồng thời tìm kiếm những mối liên hệ và tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy này sẽ làm thay đổi môi trường học của học viên từ chỗ nghe giảng viên nói sang môi trường làm việc, tư duy.
Phương pháp học theo dự án mang đến cho học viên rất nhiều lợi ích, nó tạo cho học viên khả năng kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, tạo nên công cụ hỗ trợ liên ngành để giải quyết vấn đề. Đối với những vấn đề khó, phức tạp, phương pháp này tạo cho học viên khả năng khám phá, đánh giá, giải thích và tổng hợp thông tin một cách khoa học. Thông qua các hoạt động thực tế trên lớp, phương pháp này tạo cho học viên sự thích thú, hứng thú với việc học.
Vai trò của giáo viên trong phương pháp học theo dự án có rất nhiều thay đổi so với phương pháp truyền thống. Giáo viên không đóng vai trò là người điều khiển tư duy học viên mà là người hướng dẫn, người huấn luyện, người tư vấn và bạn cùng học. Giáo viên phải tập trung vào việc hướng dẫn cho học viên, tạo cơ hội để học viên phát huy hết khả năng học tập và sáng tạo, đẩy mạnh tinh thần đồng đội làm việc theo nhóm của các học viên.
Quá trình thực hiện phương pháp học theo dự án:
+ Xác định một vấn đề, dự án phù hợp với học viên.
+ Liên kết vấn đề với thế giới, môi trường xung quanh của học viên.
+ Xây dựng các chủ đề xung quanh vấn đề, dự án.
+ Tạo cho học viên cơ hội để xác định phương pháp và kế hoạch học tập để giải quyết vấn đề.
+ Khuyến khích sự cộng tác bằng cách tạo ra các nhóm học tập.
+ Yêu cầu tất cả học viên trình bày kết quả học tập dưới hình thức một dự án hoặc chương trình.
Phương pháp người học là trung tâm (Learner – Centered)
Đây là phương pháp đặt học viên vào vị trí trung tâm của giáo dục. Phương pháp này bắt đầu với việc tìm hiểu các môi trường giáo dục liên quan mà học viên xuất phát. Sau đó giáo viên hướng dẫn tiếp tục đánh giá tiến độ học của học viên so với mục tiêu học, bằng cách giúp cho người học có được các kỹ năng cơ bản để học tập. Phương pháp này tạo cho học viên nền tảng cho việc học suốt đời, vì vậy học viên phải có trách nhiệm với việc học của bản thân. Với phương pháp này giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn học viên trong quá trình học.
Phương pháp người học là trung tâm mang đến nhiều lợi ích, trước hết nó loại bỏ cách dạy và học: ” Giáo viên nói, học sinh nghe”, khuyến khích sự sáng tạo từ giáo viên và học viên một cách tối đa, đồng thời tạo nên sự thân thiện giữa giáo viên và người học thông qua việc tăng cường trao đổi, học hỏi qua lại. Phương pháp người học là trung tâm tập trung sự tham gia nhiệt tình, chủ động của người học trong suốt quá trình khám phá tìm tòi, đồng thời tạo điều kiện để người học có cơ hội trình bày, bảo vệ những ý kiến sáng tạo của mình.
Các yếu tố liên quan đến phương pháp người học là trung tâm:
+ Bối cảnh học: Việc học chịu sự tác động của các yếu tố môi trường bao gồm văn hoá, kỹ thuật và các phương pháp giảng dạy. Giáo viên đóng vai trò tương tác chính giữa học viên và môi trường học. Những ảnh hưởng văn hoá có thể tạo ra nhiều tác động liên quan mang tính giáo dục như động cơ học, định hướng đối với việc học và cách tư duy. Kỹ thuật và phương pháp dạy phải phù hợp với trình độ kiến thức sẵn có, khả năng nhận biết và các chiến lược tư duy của học viên.
+ Các ảnh hưởng đối với việc học: Việc học chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh. Việc học có thể nâng cao khi người học có cơ hội tiếp xúc và cộng tác với người khác. Các môi trường học cho phép tạo ra các mối tương tác xã hội, tôn trọng tính đa dạng, khuyến khích lối tư duy linh hoạt. Qua việc tiếp xúc và hợp tác với giáo viên hướng dẫn, cá nhân người học sẽ có cơ hội tiếp thu nhận thức và tư duy phản ánh, từ đó phát triển trình độ hiểu biết và hoàn thiện bản thân.
+ Mục đích của quá trình học: Bản chất chiến lược của việc học là đòi hỏi học viên phải biết định hướng mục tiêu. Để nắm vững các tri thức, kỹ năng và đạt được các chiến lược tư duy cần thiết cho việc học, học viên phải tạo ra các mục tiêu cho bản thân và theo đuổi các mục tiêu đó. Khởi đầu, các mục tiêu ngắn và việc học có thể sơ sài trong một phạm vi nào đó nhưng qua thời gian, mức độ hiểu biết của học viên có thể được xác định thông qua trình tự tìm hiểu, trao đổi và tích luỹ các tri thức cần thiết.
Phương pháp Kỹ thuật tạo ra ý tưởng (Brainstorming).
Tác giả của phương pháp Brainstorming (tạm dịch là kỹ thuật tạo ra ý tưởng) là Alex Osborn (Hoa Kỳ). Mục đích chính của phương pháp này là giúp người học thoát ra khỏi tư duy theo lối mòn và tạo ra một loạt các ý tưởng mà sau đó có thể lựa chọn. Phương pháp này áp dụng phù hợp với nhóm học viên.
Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp kỹ thuật tạo ra ý tưởng:
+ Tôn trọng mọi ý tưởng đưa ra: Khi các ý tưởng được đưa ra, không được phép chỉ trích, phê bình ngay. Tất cả các ý tưởng đều được ghi chép lại và phân tích đánh giá ở các bước sau.
+ Tự do suy nghĩ: Không giới hạn việc đưa ra các ý tưởng bay bổng kể cả những ý tưởng khác thường bởi trên thực tế có những ý tưởng kỳ quặc đã trở thành hiện thực.
+ Kết nối các ý tưởng: Cải thiện, sửa đổi, góp ý xây dựng cho các ý tưởng. Các câu hỏi thường đặt ra: Ý tưởng được đề nghị chất lượng thế nào?. Làm thế nào để ý tưởng đó đem lại hiệu quả? Cần thay đổi gì để ý tưởng trở nên tốt hơn?…
+ Cần quan tâm đến số lượng các ý tưởng: Tập trung suy nghĩ khai thác tạo ra khối lượng lớn các ý tưởng để sau đó có cơ sở sàng lọc. Có hai lý do chính để cần số lượng lớn các ý tưởng. Thứ nhất những ý tưởng lúc đầu học viên đưa ra thông thường là các ý tưởng hiển nhiên, cũ, ít có tính sáng tạo, vì vậy cần có phương pháp để học viên tạo ra nhiều ý tưởng mới.
Thứ hai các ý tưởng giải pháp càng nhiều, càng có nhiều ý tưởng để lựa chọn.
Ngoài các phương pháp đã đề cập trên đây còn khá nhiều các phương pháp khác đã được phát minh, nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy như phương pháp Học thực tiễn của David A. Kolb, phương pháp Quản lý ý tưởng (Ideas Management), phương pháp 6 chiếc nón tư duy ( Six Thinking Hats)….
Qua việc phân tích một số phương pháp giảng dạy có thể nhận định các phương pháp này có rất nhiều sự khác biệt so với phương pháp truyền thống. Trong đó sự khác biệt cơ bản nhất là vai trò của người học và người dạy đã thay đổi, sự thay đổi này đã biến quá trình học của học viên từ thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm và kích thích khả năng sáng tạo của họ.
Trở lại với hoạt động giáo dục đào tạo ở Việt Nam, vấn đề cốt lõi vẫn là cần tìm giải pháp khắc phục những tồn tại ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo chúng ta cần phải cải tiến đổi mới đồng bộ về nhiều mặt: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giáo viên, … Trong đó việc đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo một cách bền vững. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ tạo điều kiện tốt cho người học có thể phát huy hết khả năng tư duy của mình, biến quá trình học của người học thành quá trình phát triển tư duy sáng tạo.
(3)- Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, đưa Tin học vào quản lý và đổi mới phương pháp : Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường đại học. Tích cực đưa Tin học vào giảng dạy, thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Hiện nay trên thế giới đang thực hiện những phương tiện dạy học hiện đại như: học với máy tính, với đèn chiếu overhead, với giáo án điện tử …… Chúng ta từng bước tiếp cận, nhân rộng, từng bước đưa vào sử dụng để thay đổi phương pháp dạy học .
(4)-Đổi mới công tác quản lý giáo dục : Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm
Hiện nay ngành giáo dục đang lệ thuộc nhiều vào các lực lượng khác ngoài ngành, ví dụ tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ lên lớp, lưu ban …. “bệnh thành tích” đang làm cho ngành mất đi tính độc lập, chủ động, thậm chí quản lý nhân sự ở các ngành học phổ thông cũng không phải thuộc ngành giáo dục quản lý. Nên có định hướng quản lý ngành giáo dục theo ngành dọc toàn bộ, độc lập chỉ đạo về chuyên môn, nhân sự , ngân sách, thanh tra kiểm tra, kể cả xây dựng cơ bản, cơ sở vật chất thì ngành mới chủ động thay đổi phương pháp giáo dục .
Xữ lý nghiêm túc các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục ( thi cử , luận văn , cấp bằng …) Không thể có chuyện: không ai giải thích được vì sao có chuyện dạy thêm học thêm, đây là nhiệm vụ của ngành giáo dục, nếu chủ trương của Đảng và nhà nước cấm thì ngành phải có nhiệm vụ xử lý, tìm biện pháp xữ lý .
Tăng cường sắp xếp lại hệ thống các trường phổ thông và đại học, hệ thống trường công, trường tư, trường bán công, trường dân lập. Gắn các trường đại học và trung học chuyên nghiệp với các viện nghiên cứu để tận dụng tối ưu năng lực của đội ngũ và cơ sở vẫt chất hiện có.
Coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học giáo dục nhằm giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục, các chủ trương, chính sách về giáo dục, những đổi mới về nội dung, quy trình, phương pháp giáo dục, đánh giá, thi …. Đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng và trãi qua thực nghiệm, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đưa vào nhà trường theo đúng quy định . Không tuỳ tiện cải cách, đổi mới, chỉnh lý sách giáo khoa liên tục như những lần vừa qua .
Khó khăn nhất của chúng ta hiện nay là sự yếu kém của đội ngũ quản lý giáo dục , đây là hậu quả của chế độ quan liêu, bao cấp đã tồn tại trên đất nước ta một thời gian dài. Hiện nay chung ta đang thực hiện công cuộc đổi mới ,nhưng ta chú trọng đổi mới kinh tế, còn chính trị sẽ từng bước đổi mới. Vì vậy hệ thống giáo dục và các ngành khác đều đổi mới sau chính trị. Vì vậy một số vấn đề tiêu cực đang diễn ra trong ngành giáo dục. Mặt khác, giáo dục là ngành có nhiều quan hệ đến nhân dân, nên khi bộc lộ những điểm bất cập, ngành giáo dục sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên nếu không khẩn trương thực hiện đổi mới tư duy trong giáo dục .
Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giáo dục trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính giáo dục. Thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục; quản lý theo pháp quyền trên cơ sở một hệ thống pháp luật giáo dục đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương và triệt để phân cấp quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tăng hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục trong toàn ngành ở tất cả các cấp quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục; chuyển dần quản lý nhà nước về giáo dục nặng về hành chính sang quản lý chất lượng và từ quản lý nhà nước theo cách kiểm soát sang giám sát mọi hoạt động giáo dục. Nâng cao vai trò các tổ chức xã hội nghề nghiệp giáo dục như Hội Giáo chức, Hội Khuyến học, liên hiệp hội các trường ngoài công lập… trong phát triển giáo dục.
(5)-Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học :
Nguồn lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là động lực, là nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi là chìa khóa, là nhân tố trung tâm cho sự nghiệp giáo dục phát triển.
Suy đến cùng, chất lượng nền giáo dục nước ta cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ thầy, cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do vậy, phải đặt trọng tâm vào tạo bước chuyển biến chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực tiễn 25 năm đổi mới giáo dục đã khẳng định phải mở rộng, phát huy dân chủ và thực hiện đồng bộ các khâu phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, bố trí sử dụng, thực hiện chính sách đãi ngộ tương xứng.
Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong toàn ngành là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài bởi vì sự nghiệp giáo dục nước ta luôn phát triển đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý giáo dục. Trách nhiệm của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không chỉ là trách nhiệm với hiện trạng giáo dục nước ta hôm nay mà còn là trách nhiệm với quá khứ và tương lai. Ngành Giáo dục nước ta phải là nơi thu hút được những người giỏi nhất, thông minh nhất và yêu nghề nhất để thực sự là đòn bẩy để nâng con người Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, phải được xã hội tôn vinh, vì thế giáo viên có đủ đức, đủ tài. Muốn nâng cao chất lượng dạy và học trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo của các trường Sư phạm .
Cả nước đang thực hiện thay sách, đổi mới chương trình sách giáo khoa khối lớp 8 , có dự án Việt –Bỉ hỗ trợ thực hiện ở các tỉnh phiá Bắc, thiết kế chương trình thay sách bằng cách đổi mới từ trường Cao đẳng sư phạm, là trường đào tạo người dạy học cho trường trung học cơ sở, nhưng dự án vẫn không được nhân rộng trong cả nước. Trong khi cả nước ta vẫn thay sách, vẫn đổi mới sách giáo khoa ở trường trung học cơ sở nhưng không đổi mới ở trường Cao đẳng sư phạm .
Hiện nay chúng ta đang thực hiện không thu học phí sinh viên các trường sư phạm, đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ, thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn hoá đội ngũ, xếp lương giáo viên cao và có nhiều chính sách đãi ngộ đội với giáo viên, nhất là giáo viên ở những vùng khó khăn .
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ thì ta đã làm nhiều, nhưng việc đánh giá đội ngũ thì không có một cơ quan thanh tra chuyên nghiệp nào thực hiện, chủ yếu là lực lượng thanh tra nghiệp dư, bán chuyên nghiệp. Hậu quả là không có một thanh tra không chuyên nghiệp nào dám loại trừ một giáo viên không đủ trình độ phẩm chất ra khỏi ngành . Hậu quả của thời kỳ “………sư phạm bỏ qua ” đã để lại không ít tiêu cực.
Thay đổi cách tuyển chọn cán bộ, đánh giá giáo viên
Mặc dù gần đây một số địa phương đã đổi mới cách tuyển chọn cán bộ. Nhưng các kỳ thi công chức chưa hẳn đã thực sự khách quan. Đã đến lúc chúng ta cần siết chặt việc thi tuyển công chức, có cơ chế thi tuyển minh bạch hơn. Thanh tra ngành GD đi sâu vào đánh giá chất lượng giờ giảng của từng ứng viên thay vì thông qua các bài viết kiểm tra kiến thức chung chung. Kẽ hở trong thi tuyển công chức sẽ tạo ra cơ hội để những thầy, cô giáo không đủ năng lực lại làm nhiệm vụ “trồng người”.
Một bác sỹ sai sót có thể gây ra cái chết cho một người, nhưng một giáo viên tồi có thể tạo ra cái “chết” cho cả hàng chục, thậm chí hàng trăm học sinh, sinh viên. Cái “chết” về mặt nhận thức trong một số trường hợp còn nguy hiểm hơn cả cái chết về mặt sinh học.
Liên quan đến thi tuyển là đánh giá giáo viên. Hầu hết việc đánh giá giáo viên do ban giám hiệu, trưởng khoa, hay tổ trưởng chuyên môn phối hợp tiến hành. Điều đó không đúng với thực tiễn, và thiếu tính khoa học. Bởi vì, cũng như các ngành nghề khác, đối với ngành GD chúng ta có thể xem giáo viên là người cung cấp hàng hóa (loại hàng hóa đặc biệt), còn học sinh, sinh viên là khách hàng. Như vậy, tại sao học sinh, sinh viên (với tư cách là khách hàng) lại không được tham gia chủ động, tích cực vào quá trình đánh giá đó?
Được biết gần đây, ngành GD có chủ trương học sinh, sinh viên được đánh giá thầy cô giáo. Đó là chủ trương cần thiết. Xin đừng sợ học sinh đánh giá thiên lệch. Thiết nghĩ không bao giờ có một thầy giáo kém năng lực mà được học sinh đánh giá tốt. Nếu có như vậy, thì trước hết nên xem lại chính các tiêu chí đánh giá do nhà trường hay do ngành GD đưa ra để cải thiện thang, bảng đánh giá. Tôi có cơ sở để tin rằng học sinh, sinh viên đủ kiến thức cần thiết để đánh giá được thầy cô giáo nào dạy tốt.
Do vậy, cần đẩy mạnh việc thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý.
Loại bỏ các tiêu cực không đáng có
Mặc dù những năm qua, GD và ĐT nước ta đã tạo ra những tiền đề quan trọng để đổi mới cơ bản và toàn diện, đó là sự thay đổi nhận thức và lòng tin của xã hội đối với quyết tâm đổi mới của toàn ngành giáo dục, nhưng căn bệnh thành tích và những tiêu cực, hạn chế trong GD và ĐT vẫn phổ biến. Chất lượng GD và ĐT là yêu cầu về “đầu ra” của học sinh phổ thông và sinh viên các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ). Tuy nhiên, hệ thống GD đại học chưa có một phương pháp khoa học và ổn định trong đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho CNH, HĐH đất nước. Đáng chú ý, cơ chế “xin -cho” vẫn còn phổ biến trong hệ thống GD và ĐT và là những kẽ hở cho tiêu cực có thể nảy sinh. TS Bùi Trần Phượng (Trường đại học Hoa Sen) đánh giá, quan hệ “xin – cho” và bản thân cơ chế quản lý quan liêu triệt tiêu nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục. Thẩm quyền quản lý tập trung thường xuyên bị sử dụng sai mục đích và trái với điều kiện nhằm đạt hiệu quả phân minh, đồng bộ về chất lượng giáo dục. Theo PGS,TS Bùi Ngọc Oánh, Viện trưởng Khoa học phát triển nhân lực và tài năng, hiện nay, việc đào tạo nhân lực trong các trường ĐH, CĐ còn nặng nề, thiếu tính thực tiễn và tính ứng dụng. Trong khi đó, tình trạng bằng “thật” nhưng học “giả” ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng của đất nước. Bộ GD và ĐT đánh giá, trong đào tạo ĐH, CĐ hệ không chính quy của nhiều trường còn mất cân đối về cơ cấu ngành nghề, trình độ và hình thức đào tạo. Nhiều trường vi phạm các quy định trong tuyển sinh, đào tạo, cấp phát bằng, mở ngành đào tạo. Trong khi đó, việc quản lý của Bộ GD và ĐT cùng các cấp còn hạn chế, chưa kiểm tra, giám sát thường xuyên, việc thanh tra, kiểm tra chưa có hiệu quả.
KẾT LUẬN

Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính những yếu kém, bất cập này đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong khu vực và quốc tế. Bài viết này đã nêu lên được phần nào những đánh giá thực trạng khách quan về nền giáo dục Việt Nam hiện nay, và có tham khảo một số ý kiến đóng góp của các Giáo sư, Tiến sĩ, … làm trong ngành giáo dục nhằm cải tạo nền giáo dục. Qua bài viết này mong muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn khách quan hơn về nền giáo dục nước nhà, từ đó mỗi cá nhân sẽ tự vạch ra những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như những giải pháp cho phù hợp với vai trò của mình. Có được như vậy thì tôi tin chắc rằng trong một tương lai không xa Việt Nam của chúng ta sẽ được bè bạn quốc tế biết đến như là một đất nước có nền giáo dục tiến bộ và có chất lượng. Người Việt Nam sẽ ngẩn cao đầu và tự hào vỗ ngực xưng tên “ Tôi là người Việt Nam”.
 
  • Love
Reactions: World Hello
Top Bottom