Một số suy nghĩ nhân đọc một bài thơ cổ - Nguyễn Thế Duyên

H

hiepsymayman

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Một số suy nghĩ nhân đọc một bài thơ cổ

Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương cố bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy
Tôi biết bài thơ này từ lâu lắm rồi,nhưng tôi không hiểu nó hay ở điểm nào. Tôi thấy bài thơ rất bình thường,chẳng có bất cứ một điểm nào đặc sắc .Nhưng chẳng lẽ một bài thơ bình thường như thế lại có thể sống suốt hàng nghìn năm? Làm sao bài thơ bình thường thế mà những cây bút danh tiếng nhất nước ta như Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm lại nhắc đến nó? Trong kiều có câu
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Đoàn thị Điểm thì có câu
Cùng ngoảnh lại và cùng chẳng thấy
Cả hai câu thơ của hai cây bút tài danh này đều bắt nguồn từ bài thơ này. Vậy tất nó phải có một điều gì đó khác biệt lắm mà tôi vẫn chưa nhận ra. Câu hỏi đó cứ luẩn quẩn theo tôi suốt hàng chục năm trời mà tôi không sao trả lời được. Cho đến tận hôm vừa rồi khi tôi viết một câu thơ “Mong đồng uống nước sông Tương một lần” thì một tia chớp bỗng bừng lên trong đầu tôi, và bài thơ hiện ra với tất cả những vẻ đẹp huyền ảo mà bấy lâu nay vẫn được dấu kín trong cái vỏ bình dị của nó
Tôi thật là đại ngốc khi tin vào lời cô gái “ Thiếp tại Tương giang vĩ”. Không! Nàng không ở cạnh sông Tương. Nàng cũng như tôi thôi . Nàng cũng chỉ biết sông Tương là nơi vua Thuấn từ biệt hai người vợ của mình và từ đấy dòng sông trở thành biểu tượng cho sự chia li và nàng đã dùng ngay con sông ấy để đổ vào đấy tất cả tình yêu nồng nàn, đắm đuối của mình
Một đôi trai tài gái sắc tình cờ gặp nhau bên một dòng sông. Không hiểu sao tôi lại luôn luôn nghĩ rằng họ gặp nhau bên một dòng sông? Có lẽ vì một tình yêu đẹp nên bắt đầu từ một nơi có phong cảnh đẹp và vì nên có một dòng sông để cho cô gái có thể dễ dàng gắn nó với dòng sông Tương của lòng mình.
Chàng trai chắc chắn phải là người mà Nguyễn Du đã từng viết
Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
Bởi vì nếu không phải là người như thế thì làm sao cô gái có thể bị mũi tên của thần ái tình bắn trúng ngay từ những phút đầu tiên? Còn nàng, chắc chắn nàng cũng phải đẹp lắm không những thế nàng còn rất tự tin vào sắc đẹp của mình. “Tương cố bất tương kiến” Từ “Cố” có nghĩa là ngoảnh đầu lại nhìn. Nếu nàng không đẹp, không tự tin vào sắc đẹp của mình thì làm sao nàng dám nói từ “Tương cố” cùng ngoảng lại nhìn? Cả bài thơ không có một từ nào nói về nhan sắc của hai người nhưng chúng ta, người đọc, phải tự suy ra điều đó. “Ý tại ngôn ngoại”đó chính là cái hay, cái đẹp của cổ thi nhưng nó cũng là cái rất dở của thơ cổ. Một bài thơ nếu vào tay một người có tâm hồn bay bổng, có sự liên tưởng phong phú thì bài thơ thành tuyệt vời. Nhưng cũng chính bài thơ đó mà rơi vào một người tâm hồn cằn cỗi, sức liên tưởng non nớt thì bài thơ cũng chẳng hơn một bài vè là mấy. Thơ cổ quá kín đáo ,nó đòi hỏi người đọc phải bỏ nhiều công sức mới mong thưởng thức được bài thơ một cách trọn vẹn. Chẳng thế mà truyện kiều Nguyễn Du viết đã hai trăm năm nhưng cho đến tận bây giờ ta vẫn phát hiện ra những điều rất mới lạ. Chúng ta thử xem lại đoạn Kiều khóc Từ Hải
Khóc rằng trí dũng có thừa
Vì nghe lời thiếp nên cơ hội này
Tại sao lại “Nên cơ hội này”?Tôi thì tôi muốn diễn dải lời của Kiều bằng văn xuôi-Chàng ơi! Chàng trí dũng có thừa nhưng vì chàng nghe theo lời thiếp nên bọn ******** này mới có cái “ cơ hội này” đểhãm hại chàng- Chỉ một chút thôi nhưng câu thơ đã khác hẳn từ một lời khóc đã trở thành một lời chửi rủa
Khác hẳn với thơ cổ, thơ của chúng ta bây giờ lại lại nói nhiều quá. Nói hết cả những điều cần nói khiến cho người đọc chẳng còn gì để tham gia vào bài thơ. Một bài thơ như thế , theo tôi là một bài thơ chết. Có lẽ chúng ta nên dung hòa giữa hai thái cực này
Tôi hơi lan man mất rồi. Chúng ta quay lại với bài thơ. Chúng ta nên nhớ, bài thơ này còn ra đời trước truyện Kiều gần nghìn năm. Thời của Nguyễn Du mà khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng vẫn còn
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Thì đôi trai tài gái sắc của chúng ta chắc chắn không thể gặp gỡ nhau lâu được. Cuộc gặp gỡ nếu có chắc chắn là sẽ rất ngắn ngủi. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng họ chỉ đi lướt qua nhau. Mà tôi thích cái ý nghĩ họ chỉ đi lướt qua nhau hơn. Khi vượt qua nhau rồi, Nàng chắc chắn chàng sẽ phải quay lại nhìn mình.!Mình xinh đẹp thế kia mà. Nàng cũng muốn quay lại để nhìn chàng nhưng không dám. Nàng cố kìm nén lòng mình. Đi thêm một đoạn nữa và lúc này không còn kìm nén nổi lòng mình nữa, nàng quay lại nhìn và không còn thấy bóng dáng chàng đâu. “Tương cố bất tương kiến” Nếu hình dung theo văn cảnh này thì cô gái hiện lên rực rỡ biết bao
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Nếu chúng ta đồng ý với nhau là nàng không ở sông Tương thì hai câu này lại có vấn đề. Tại sao chàng ở đầu sông còn nàng lại ở cuối sông? Có thể đảo ngược lại được không? Và nếu đảo ngược lại thì điều gì sẽ xảy ra? Không thể đảo ngược. Nếu nàng ở đầu sông thì sự nhớ nhung của nàng trôi theo dòng nước đến với chàng là chuyện rất bình thường bất cứ cô gái nào cũng làm được điều đó. Không hôm nay thì ngày mai thế nào rồi nỗi nhớ nhung ấy cũng phải trôi đến chỗ chàng. Nhưng cô gái của chúng ta sống mấy nghìn năm thì phải khác.Nhà thơ đã khôn khéo cho nàng ở cuối sông. Tình yêu của nàng ngược dòng nước vượt qua hơn hai ngàn dặm đến chỗ chàng trai và mỗi lần chàng trai uống dòng nước vẫn cảm nhận được hương vị của tình yêu ấy thì không phải cô gái nào cũng làm được. Nàng đúng là hiện thân của một tình yêu mãnh liệt
Bạn Hoangau có nói với tôi theo chỗ bạn biết thì câu thứ ba của bài thơ là “Tương tư bất tương kiến”. Tôi cũng có trong tay một bản in của nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp viết đúng như bạn nói nhưng những sách xuất bản trước năm1960 của nhà xuất bản văn học thì hay dùng câu của tôi hơn. Theo tôi một tác phẩm văn học trải qua hàng nghìn năm có nhiều dị bản là chuyện bình thường. Vấn đề là ở chỗ bản nào ta thích hơn thì ta dùng bản ấy. Bản thân tôi thích “Tương cố” hơn “Tương tư”. Tôi mong một bạn nào đó thử tiếp cận bài thơ theo hướng “Tương tư bất tương kiến” có lẽ sẽ có nhiều điều mới lạ.
Từ khi bài thơ ra đời dòng sông Tương càng trở nên nổi tiếng. Nó đã trở thành dòng sông của thi ca. Thậm chí nó còn làm lu mờ cả truyền thuyết vua Thuấn .Thế mới biết thi ca có sức mạnh biết bao
Bài thơ còn nhiều vấn đề phải bàn luận như vần thơ,tại sao bài thơ lại ngắn thế? Vấn đề ở phía chàng trai v….v nhưng bài viết cũng dài rồi sợ làm các bạn mệt. tôi xin được dừng ở đây. Nếu có bạn nào có một cách tiếp cận khác thì tôi mong được trao đổi cùng các bạn
[COLOR=#ccccf] [/COLOR]
 
N

nobeltheki21

Ch

Mình thấy bạn bình thơ rất hay.nhưng mình nghĩ thơ cổ phải hiểu được dòng cảm xúc của tác giả mới nhìn nhận được chiều sâu của bài thơ.Bạn có thể làm rõ dùm mình bài "Độc Tiểu Thanh kí "được ko?
 
H

hiepsymayman

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã đọc bài viết, mình sẽ liên hệ với tác giả Nguyễn Thế Duyên để chuyển lời đề nghị của bạn.
Chúc bạn vui vẻ!
 
H

hiepsymayman

Mình thấy bạn bình thơ rất hay.nhưng mình nghĩ thơ cổ phải hiểu được dòng cảm xúc của tác giả mới nhìn nhận được chiều sâu của bài thơ.Bạn có thể làm rõ dùm mình bài "Độc Tiểu Thanh kí "được ko?
Chào bạn!
Lâu nay mình rất bận, hôm nay tác giả Nguyễn Thế Duyên đã viết bài về tác phẩm "Độc Tiểu Thanh kí "
Mình mang sang đây, bạn đọc rồi cho mình biết ý kiến nhé!
Cám ơn bạn nhiều!

Một đôi điều cần bàn nhân đọc “Độc Tiểu Thanh ký”
Vài lời mở đầu
Bạn hiepsymayman có mang bài “Mấy suy nghĩ nhân đọc một bài thơ cổ” của tôi đăng lên một diễn đàn. Một bạn trong diễn đàn ấy đã đề nghị tôi bình bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du. Bạn hiepsymayman có chuyển cho tôi lời đề nghị ấy nhưng vì một phần do tôi không có thời gian, và một phần (Mà là phần chủ yếu) là bài thơ này có rất nhiều ý kiến khác nhau mà ý kiến nào cũng có cái lý đúng của nó khiến cho tôi rất phân vân khi chọn một góc độ để tiếp cận bài thơ.
Như tôi đã từng nói: “ Không có cách tiếp cận sai, chỉ có cách tiếp cận nào làm cho bài thơ hay hơn, nhiều ý nghĩa hơn mà thôi”. Trước khi viết bài này, tôi đã nghiên cứu kĩ tất cả các cách tiếp cận khác nhau của mọi người với với bài thơ này, phân tích cái được, cái chưa được của những góc tiếp cận đó để chọn cho mình một cách tiếp cận khác. Xin mạnh dạn viết ra đây để mọi người cùng bàn luận.
Nguyễn thế Duyên


Ba trăm năm! Dài hay ngắn với cuộc đời của một con người?
Rất dài!
Cái khoảng thời gian ấy đủ để biến một vườn hoa lộng lẫy bên Tây Hồ thành một nơi hoang vắng
Tây hồ hoa uyển tẫn thành hư.
Cái khoảng thời gian ấy đủ để xóa sạch mọi dấu vết của một cá thể cụ thể nào đó đã từng tồn tại trên đời.
Thời gian! Vô thanh, vô hình, nhưng lại có một sức hủy diệt thật đáng kinh sợ. Nó chậm rãi nghiền vụn mọi thứ trên cuộc đời này để rồi ném tất cả vào trong hư vô và hình như mọi sự sống mà đức Chúa trời đã tạo ra đều bị thời gian khuất phục. Trừ con người.
Cũng như mọi sinh vật khác, con người cũng luôn sợ thời gian. Nhưng khác với mọi loại sinh vật khác, trong con người lại luôn luôn thường trực một khát vọng cháy bỏng: “Chinh phục thời gian”
Cũng từ cái khát vọng đó mà những câu chuyện thần thoại ra đời, những vị thần bất tử. Cũng từ cái khát vọng đó mà đạo giáo đã ra đời, những cách tu luyện để trở thành Tiên Phật, những cách chế luyện linh đan, thần dược có thể làm con người trở nên trường sinh bất tử chẳng phải đã ra đời từ cái khát vọng đó hay sao?
Có một người đứng trước cảnh hoang phế của một nơi trước kia đã từng là một vườn hoa tuyệt đẹp, ông đã cảm nhận được cái sức mạnh vô hình khủng khiếp của thời gian và cũng như mọi vĩ nhân khác, cái khát vọng chinh phục thời gian lại bùng cháy trong ông dữ dội.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố như?
Một câu hỏi không lời giải đáp. Ông tự hỏi mình và chính ông cũng không thể trả lời được . Nhưng! Chính cái câu hỏi ông tự đặt ra đó đã cho chúng ta biết một điều “Nguyễn Du đã tìm ra cách để chinh phục thời gian”.
Vì sao Nguyễn Du biết đến có một Tiểu Thanh từng tồn tại trên cuộc đời này? Vì nàng đẹp quá chăng? Chắc chắn là không phải! Cái đẹp tuy cũng có sức mạnh của nó nhưng cái đẹp chưa đủ mạnh để chiến thắng nổi thời gian. Những người như Dương quý phi, Điêu Thuyền, Tây Thi có sống nổi thêm dăm ba năm sau khi chết không, nếu như không có những tác phẩm văn học như “Đông chu liệt quốc” hay “Tam quốc diễn nghĩa” ?
Không! Chắc chắn là không. Còn một câu hỏi nữa.
“Những giai nhân tuyệt sắc ấy liệu có ai nhắc đến không khi bên cạnh họ không có hình bóng của một người đàn ông có khả năng làm chao đảo cả lịch sử?
Cũng chắn chắn là không. Biết bao nhiêu hoa hậu thế giới ngày nay chỉ sau một vài năm đã vĩnh viễn không còn ai nhắc tới. Sắc đẹp, tự nó khi đứng một mình, không đủ tạo nên sức mạnh.
Tiểu Thanh dẫu có là một cô gái đẹp thì chắc cũng không thể đẹp bằng Tây Thi vả lại bên cạnh nàng lại không có bóng dáng của một người đàn ông “Chọc trời khấy nước” mà sao Nguyễn Du vẫn biết đến nàng? Đó là vì cuốn “Dư tập”. Còn chúng ta biết đến nàng là vì chúng ta có “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du.
Viết đến đến đây tôi lại sực nhớ đến một đoạn trong “Tùy viên thi thoại”. Xin trích ra đây để mọi người đọc và suy ngẫm
Tôi đùa khắc một con dấu để dùng riêng, trên có câu thơ “Tiền Đường Tô Tiểu thị lương thân” (Tô Tiểu Tiền Đường [1] là người quen). Viên thượng thư nọ qua Kim Lăng, đòi xem tập thơ của tôi, tôi tùy tiện đóng con dấu ấy mà đưa, ông quở trách rất gắt, ban đầu tôi còn xin lỗi, sau ông ta cứ quở mãi, tôi bèn nghiêm sắc mặt mà nói rằng: “Ngài cho con dấu ấy là thối tha ư? Cứ hiện nay mà nói, cố nhiên ngài là quan nhất phẩm, Tô Tiểu Tiểu là hèn mọn, nhưng e rằng, sau trăm năm, người đời chỉ biết có cô Tô Tiểu Tiểu ấy mà không còn biết có có ngài nữa”.
Con người! Loài sinh vật duy nhất không chỉ mong tồn tại trên thế giới này mà hơn thế, con người còn muốn sống mãi
Có người cho rằng hai từ “Tố như” Trong hai câu thơ này không phải là nói về tác giả mà hai từ “Tố như” trong hai câu trên có nghĩa là một cô gái đẹp. Với hướng tiếp cận này ông Vũ Tam Cập đã dịch hai câu cuối thành
Ba trăm năm nữa làm sao biết
Ai khóc thương nàng phận trái ngang
Và cho rằng nếu coi hai từ “Tố như” là một danh từ chung chỉ về một cô gái đẹp ( ở đây là chỉ về chính nàng Tiểu Thanh) thì câu thơ sẽ sâu sắc hơn vì tác giả lý luậnrằng: “ sự nghiệp Nguyễn Du hiển hách chẳng có gì để cho đời sau phải khóc vì thương cảm”.
Tôi cho rằng cách tiếp cận bài thơ như thế là không ổn.
Thứ nhất—Nếu chúng ta hiểu từ “Khấp” theo nghĩa đen là “Khóc” để rồi cho rằng cuộc đời Nguyễn Du chẳng có gì để cho đời sau phải thương cảm thì câu thơ có nghĩa là
“Sau ba trăm năm ta (Nguyễn Du) thương cảm cho cuộc đời nàng. Vậy ba trăm năm nữa liệu còn ai thương cảm về cuộc đời nàng nữa không?
Còn nếu chúng ta hiểu nghĩa từ “Khấp” theo nghĩa bóng là “ sự tưởng nhớ”, “ biết đến” Và hai từ “Tố Như” trong câu thơ là danh từ riêng chỉ về chính tả giả thì câu thơ trên có nghĩa là.
Nàng đã sống ba trăm năm liệu ta có thể sống nổi ba trăm năm như nàng không?
Thì câu thơ trở nên cực kì sâu sắc.
Thứ hai—Nếu hiểu theo nghia “Tố Như” là danh từ chung chỉ về người con gái đẹp thì chúng ta không thể lí giải được câu
Bất tri tam bách dư niên hậu
Tại sao lại là ba trăm năm mà không phải là bốn hay năm trăm năm sau liệu có ai còn khóc thương nàng nữa không?
Khi khóc Tú xương cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã viết
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn năm tiếng vẫn còn
Một nghìn năm chứ không phải là ba trăm năm
Chúng ta không thể trả lời được câu hỏi này. Nhưng nếu hiểu hai từ “Tố Như” là chính tác giả thì câu hỏi này hoàn toàn có thể trả lời được. Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nguyễn Du đã lấy Tiểu Thanh làm hệ quy chiếu nên không phải vô tình ông đưa ra hai từ “Tam bách”.
Các bạn có thấy không! Chỉ cần hiểu khác nhau hai từ thôi câu thơ đã hoàn toàn đổi khác.
Văn học tồn tại với thời gian là do tính nhân văn của nó. Có thể nói chắc chắn rằng chỉ có những tác phẩm có tính nhân văn cao mới có thể trường tồn và trở thành những tác phẩm kinh điển. Còn những tác phẩm mà nói như cụ Nguyễn Du “ Mua vui cũng được một vài trống canh” thì lập tức bị thời gian chôn vùi vào quên lãng. Thật đáng tiếc nền văn học “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” của chúng ta chẳng có nổi một tác phẩm văn học nào sống nổi ba mươi năm. Tại sao vậy? Hoài Thanh trước khi chết đã ngậm ngùi nói với con trai mình rằng “Nền văn học của chúng ta thiếu tính nhân văn” (Tôi chỉ nhớ đại ý mà không nhớ chính xác câu nói . Điều này được chính con trai Hoài Thanh kể lại trong phần lời nói đầu của cuốn “Thi nhân việt nam” trong một lần tái bản). Thực ra nói như Hoài Thanh cũng chưa hẳn đã đúng. Chính xác ra thì phải nói rằng “Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta tuy cũng có tính nhân văn nhưng cái biên độ của tính nhân văn ấy quá hẹp. Chúng ta chỉ yêu thương những kẻ trong hàng ngũ của chúng ta còn những ai không ở trong hàng ngũ của chúng ta thì ta lại có chuyên chính vô sản để thay thế. Thời còn trẻ khi đọc câu thơ
Cho!
Cho!
Cho tất cả mọi điều
Giết chúng đi! Chỉ còn một đường thôi giết chúng
Ôi hôm nay lòng ta như họng súng
Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu
Của Chế Lan Viên tôi đã cho là hay lắm cho đến tận khi đọc Quo vadis ( Một cuốn sách được tặng thưởng Noben văn học) đến cái đoạn người giáo dân từ trên cao của cây thánh giá (Vì ông đang bị đóng đinh lên cây thánh giá) cúi nhìn xuống kẻ đã phản bội ông và cả một cộng đồng của hắn mà nói rằng
-Ta tha thứ cho người
Thì tôi mới hiểu Chế Lan Viên mới nhỏ bé làm sao. Một nền văn học được khuyến khích bởi một biên độ nhân văn nhỏ hẹp như vậy làm sao có thể xuất hiện những tác phẩm lớn. Chế Lan Viên của nền văn học “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” đã chết chỉ còn một Chế Lan Viên của “Điêu tàn” còn sống với cuộc đời. Sao vậy? Vì tính nhân văn của điêu tàn cao hơn hẳn thời Chế Lan Viên viết theo bút pháp “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” Thời viết điêu tàn thơ ông đầy thương cảm và hoài nhớ. Thời “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” Thơ ông chỉ có lửa và chính ngọn lửa đó đã đốt cháy chính ông và ném ông vào hư vô.
 
H

hiepsymayman

Thương cảm, đồng cảm với nỗi đau của con người hình như là bản năng của người cầm bút. Khi cầm bút viết thi nhân đã hóa thân vào nhân vật của mình. Đừng đặt ra câu hỏi “Cuộc đời Nguyễn Du hiển hách công thành danh toại có chi mà phải khóc cho ông?” Loại câu hỏi như thế có thể đặt ra cho bất cứ ai. Trừ thi nhân. Đau với nỗi đau của con người. Vui với niềm vui của con người đó chính là “Phật tính” của người cầm bút. Không có cái “Phật tính” ấy văn chương chắc sẽ không tồn tại trên cuộc đời này.
Phong vận kì oan ngã tự cư.
“Tự cư” tự mình thấy, tự đặt mình vào nỗi oan khuất của người xưa để mà thương cảm. Trong chúng ta ai chẳng đã từng có một lần rời trang sách mà rưng rưng nước mắt. Đấy chính là lúc ta đã hóa thân vào trang sách như Nguyễn Du. Nhưng hơn hẳn chúng ta, ông còn muốn ngửa mặt lên hỏi trời “Sao vậỵ?”
Văn chương có lỗi gì đâu mà cũng mang ra đốt. Sắc đẹp có phải là tội lỗi không mà phải chết một cách oan ức? Đồng cảm với nạn nhân nhưng Nguyễn Du còn lớn tiếng lên án sự độc ác của con người.
Son phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Trời cao không trả lời “Thiên nan vấn” vì trời chính là cuộc đời này đầy dẫy sự bất công và độc ác. Câu thơ là một lời lên án chế độ thối nát đương thời. Và cái hình ảnh cô độc của tác giả trước một cảnh hoang phế với một trang sách mỏng viếng người xưa gieo vào trong lòng người đọc một nỗi cô đơn đến bùi ngùi. Nó tạo cho ta một cảm giác hình như cái tốt đẹp quá nhỏ bé trước sự độc ác và vô cảm của con người.
Thông thường một bài thơ đường luật được chia làm hai phần một phần thực nói về cái hiện tại mà tác giả bắt gặp và một phần luận từ cái bắt gặp đó suy ra những điều mà tác giả muốn gửi gắm. Thường ra mà nói hai phần thực và luận dài bằng nhau (đều là bốn câu) ta lấy một vài ví dụ để làm rõ điều nay
Buớc đến đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên song rợ mấy nhà
Nhớ nuớc đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Từ câu một đến câu bốn là tả cảnh thực. Từ câu năm đến câu tám là phần luận nhưng ở bài thơ này độc đáo ở chỗ phần thực duy nhất chỉ có một câu “Tây hồ hoa uyển tẫn thành hư”
Đến câu thứ hai “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” nói là phần thực cũng đúng nhưng nếu nói là phần luận cũng chẳng sai bởi vì đây không phải cái mà tác giả bắt gặp mà đây là hành động của tác giả nó cũng tương tự như câu”Dừng chân đứng lại trời non nước” Của Bà huyện thanh quan. Không thể nói đây là một câu thực.
Hai câu kết của bài thơ thật là tuyệt bút. Nó đột ngột khiến ta cảm thấy bất ngờ. Ý tứ của hai câu kết tách rời hẳn với mạch thơ của sáu câu trên và vấn đề mà hai câu kết đặt ra khiến bài thơ mang một sắc thái mới. Chính vì vậy muốn cảm thụ hết được cái hay của bài thơ này chúng ta phải đi nguợc từ dưới lên trên. Đấy cũng là một nét độc đáo của bài thơ
Bất tri tam bách dư niên hậu
Lúc viết ra câu này, Nguyễn Du không biết, không thể trả lời được câu hỏi này. Nhưng bây giờ thì chúng ta đã biết và có thể trả lời ông
Không phải là ba trăm năm mà có lẽ là ba nghìn năm nữa “ thiên hạ vẫn còn nhớ Nguyễn Du”
Hà nội 24—6--2013


Tác giả: Nguyễn Thế Duyên
 
Top Bottom