1. Cảm nghĩ của e về nhân vật anh thanh niên trong vb Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài: Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và nhân vật
-Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ và xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn Nguyễn Thành Long, có thể coi dây là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông.
Truyện với những nhân vật không tên mà tiêu biểu là anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Nhà văn muốn giới thiệu với bạn đọc một điển hình trong công cuộc lao động xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này.
Thân bài: Cần đạt được các nội dung sau:
- Nhân vật anh thanh niên
Trước khi xuất hiện nhân vật chính, nhà văn đã giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng. Phong cảnh Sa Pa núi cao với thác đổ trắng xóa, đường núi quanh co, cây cối chen nhau hiện dần mỗi lúc một hấp dẫn. Nhân vật được khắc họa rõ nét dần dần, cảnh thơ mộng, con người mộng mơ, tất cả từ bác lái xe đến ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ… dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều giản dị nhưng thật quý giá, thiêng liêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp của con người Sa Pa – những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người, trong đó có anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu.
- Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và làm việc
Anh là “người cô độc nhất thế gian”, một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ cây phong, lạnh rét. Anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người, bởi anh sinh ra có gia đình, cha mẹ, quê hương, làm sao không thèm, không nhớ? Nỗi nhớ khiến anh phải chặt cây chắn đường để được gặp người. Anh đã làm quen được với bác lái xe từ đó. Lần này qua bác lái xe, anh lại được làm quen với ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống hơn bao giờ hết.
Công việc mỗi ngày của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao.
+ Hàng ngày, anh phải báo ốp về nhà vào các giờ 01 giờ sáng, 04 giờ, 11 giờ t rưa. 19 giờ tối. Gian khổ nhất là lúc 01 giờ sáng rét, mưa, tuyết rơi, đang nằm trong chăn ấm phải chui ra khi nghe tiếng chuông đồng hồ báo Ốp, chỉ muốn thò tay ra tắt ngay đi nhưng công việc chính xác đến không thể, đòi hỏi ý chí, tinh thẩn cao. Anh vùng dậy, xách đèn đi, gió, bão tuyết ào ào xô tới tấn công như chặt từng khúc, như muốn quét đi, bứt phá lung tung tất cả… xong việc, trở về không làm sao ngủ lại được.
+ Công việc thật gian khổ, vất vả nhưng anh vẫn yêu nó, làm việc hết mình và chính xác. Có lần anh đã phát hiện ra một đám mây khô nên không quân ta đã tiêu diệt được nhiều phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Anh thấy mình thật hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi cô đơn. buồn chán của bản thân. Anh tâm sự với ông họa sĩ về công việc của mình, có lẽ đây là những suy nghĩ chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới, thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”… Đọc những lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” (Hồ Chí Minh).
- Vẻ đẹp trong nếp sống, cách ứng xử
Anh thanh niên là người sống có nề nếp, nhân cách. Một mình trên núi cao, anh có thể sống tự do, thoải mái. Nhưng không, thật bất ngờ khi mọi người đến thăm lại thấy ngôi nhà của anh thật ngăn nấp, gọn gàng. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng, ý nghĩa và anh yêu sống nhường nào!
+ Anh trồng hoa: “Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,…”, vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên, tiếp sức, làm cho tâm hồn anh tươi mát, mộng mơ, thêm yêu cuộc sống.
+ Anh đọc sách, trò chuyện, giao tiếp với sách, lấy sách làm bạn tri âm tri kỉ
+ Anh nuôi gà vừa có thêm thực phẩm hàng ngày vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm.
+ Thế giới riêng của anh: “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”, một cuộc đời riêng “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”, và ở ngoài sân: đàn gà, vườn hoa,… đẹp, giản dị mà tao nhã biết bao! Có lẽ chính lối sống đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc nhàm chán, khắc nghiệi để thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn.
Anh là người khiêm tốn, thành thực . Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh từ chối bởi thấy công việc và những đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người mà anh rất cảm phục như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “người đồng chí nghiên cứu khoa học” cùng cơ quan đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất cả niềm say mê, hào hứng… Anh nhiệt thành giới thiệu để ông họa sĩ vẽ chân dung của họ – những con người làm việc hết mình, thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng và khâm phục.
Anh là người có tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi ngưòi.
+ Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác.
+ Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô gái trẻ, anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh bộc lộ tình cảm thật hồn nhiên, chân thành đến cảm động: tặng bó hoa tươi, đẹp rực rỡ cho cô gái trẻ, đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quý hiếm vô cùng, anh giới thiệu qua công việc của mình năm phút, còn hai mươi phút mời mọi người uống trà, trò chuyện. Anh thèm và khao khát được nghe chuyện dưới xuôi, anh tiếc: “Trời ơi, chỉ còn có năm phút”. Với anh không chỉ thèm người mà còn đói cả thông tin. Thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến, anh không dám tiễn hai người, xúc động “quay mặt đi” và ấn vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn trên đường.
=> Chỉ bằng vài nét phác họa nhẹ nhàng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên – bức chân dung với những vẻ đẹp về tinh thần, tình cảm, lối sống, những suy nghĩ về lí tưởng, công việc của anh. Thật đáng tiếc! Chính tác giả cũng đã nhận xét truyện ngắn này là “một bức chân dung” – chân dung được hiện lên ở một số nét đẹp, nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính,
Kết bài: Mở rộng vấn để và liên hệ
Quá khứ – chiến tranh và những đói nghèo của đất nước đã lùi xa. Chúng ta – thế hệ trẻ của thế kỉ XXI đang tiến công vào khoa học và hội nhập quốc tế, tiếp tục phải đốì mặt với bao khó khăn mới, chúng ta không có quyền lãng quên quá khứ của đất nước, của dân tộc nhất là những thế hệ cha anh đã cống hiến, hi sinh để có ngày nay. Những bài học về phẩm chất, về lí tưởng sống như anh thanh niên và những con người lao động vô danh trong Lặng lẽ Sa Pa vẫn mãi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo. Hãy cố gắng học tập, rèn luyện để sống có ích cho bản thân và xã hội, được mọi người yêu mến, quý trọng.
2. Cảm nghĩ của e về nhân vật ông Hai trong vb Làng
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”.Niềm tin,nỗi ngờ giằng xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”.Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ như chính ông là người có lỗi…
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian.Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,bỏ Cụ Hồ là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.
Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu,niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt.Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát:“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”.Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương.Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn…
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ.Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ …
May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà .Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược .
Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
- Nguồn : GG