tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc găn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
“Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê nhớ luống cúc vười cũ:
“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao” (“Ngày thu ngẫu nhiên làm”- Thơ dịch)
Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm”.
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
“Công danh đã được hợp về nhàn,
…………………………………
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
“Hợp” nghĩa là “nên”, là “đáng”; “âu chi” nghĩa là “lo chi” Nguyễn Trãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là “công danh đã được”. Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép. “Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, ông đã vứt bỏ mọi công danh, tự dăn lòng mình: “hợp về nhàn”, nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật.
Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi: chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi “lành dữ”, khen chê nữa. Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăn trở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danh lợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ “Cuối xuân tức sự”, ông có viết:
“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,
Khách tục không ai bên mảng gần”.
Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ung dung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộc sống của Ức Trai khi đã “về nhàn”:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống.
Đìa thanh phát cỏ ương sen.”
Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ (lục ngôn). Cấu trúc câu thơ cân xứng cho thấy phép đối được vận dụng thần tình. “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” đối nhau chặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Cuộc sống chẳng có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, có “sen” rất bình dị mà thanh cao. Lúc ở triều đình, chức trọng quyền cao, trước sau Nguyễn Trãi vẫn chỉ là một ông quan thanh liêm:
“Một tấm lòng son ngời cửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”