Mùa xuân năm Canh Tý (40), nghĩa quân Hai Bà Trưng đi đánh Liên Lâu. Dường như đi cùng với đại quân (có tới ba bốn vạn người) là một khối lượng khá đông đảo các tướng lĩnh, chỉ huy, già có trẻ có mà đa số là trẻ và nữ. Vẫn theo thần tích, Phùng Thị Chính (thờ ở Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì) làm nhiệm vụ trinh sát, Sa Lương (thờ ở Hạ Trì, xã Liên Hà, huyện Đan Phượng) chỉ huy thủy binh, Ả Lã Nàng Đê (thờ ở Yên Lộ - Nghĩa Lộ, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức) chỉ huy tả quân v.v... Rồi nào là Vĩnh Hoa, Vĩnh Gia, Chàng Hối, Lôi Chấn, Đào Khang, Nguyễn Nga, Ngọc Trinh... đều là đang độ tuổi hai mươi. Đặc biệt trong đại quân đi đánh quận trị có một đội nam binh cải trang thành lính nữ do Vương Cai chỉ huy (ông này cũng cải trang thành nữ tướng)1. Thật là sự kiện có một không hai trong lịch sử. Ở các nước khác, để được tham gia chiến đấu, nữ phải cải trang thành nam giới - như Mộc Lan ở Trung Quốc đời Nam Bắc triều chẳng hạn. Đằng này thì ngược lại, nam cải trang thành nữ. Phải chăng sự kiện này là ảnh xạ của một thời đại mà vai trò người phụ nữ trong xã hội còn đặc biệt quan trọng, uy tín của họ còn khá cao.
Một điều đặc biệt nữa là trong đại quân của Hai Bà có cả người Hán: Thần tích đền Càn ở xã Kê Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc có kể rằng “Đô Thiên và Minh Giang là hai quan chức người Hán. Vì căm giận triều đình nên chạy sang Giao Chỉ, chống lại nhà Hán. Khi Hai Bà Trưng dấy binh, hai ông mang quân theo”. Thì ra không đợi đến nhà Tống mới có Từ Bá Tường và đời Minh mới có Thái Phúc là những quan lại Trung Quốc nhìn ra lẽ phải, đã đứng về phía nhân dân Việt Nam chống lại bọn cầm quyền nước họ mà từ đời Hán đã có những người Hán đứng về phía người Việt chống lại vua Hán hung bạo2.
*
* *
Nghĩa quân điệp điệp trùng trùng kéo tới bao vây Tô thành. Có lẽ chỉ mới trông thấy cảnh tượng này thái thú Tô Định đã hết hổn! Tới khi nghĩa quân tấn công bốn phía thì đúng là Tô Định chỉ còn biết tìm đường mà chạy trốn.
Truyền thuyết kể rằng Tô Định phải cắt râu, vứt bỏ cả ấn tín mà chạy. Cương mục chép là “Tô Định chạy về quận Nam Hải”. An Nam chí lược và Thiên Nam ngữ lục thì chép Tô Định tử trận. Dù sao thì thành Liên Lâu đã được giải phóng. Hang ổ của bọn quan cai trị đại Hán đầu sỏ ở Giao Chỉ bị đập tan. Trên đà ấy nhân dân các quận láng giềng là Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng hưởng ứng mà vùng lên đánh đuổi các thái thú cùng bè lũ quan lại Hán tộc. Hậu Hán thư (q.86) có ghi: Thứ sử Giao Chỉ và các thái thú chỉ còn giữ được mình mà thôi”. Đúng là “quân đi đến đâu như gió lướt đến đấy” (Cương mục).
Thế là ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cả Hợp Phố nữa, chính quyền đô hộ của người Hán đã bị lật đổ. Sau một thời gian không dài, cùng nổi dậy chiến đấu liên tục tiến công kẻ thù, nhân dân Bách Việt nói chung, Âu Việt, Lạc Việt nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng đã giành lại tự do. Nước Âu Lạc sau hai trăm năm bị đô hộ nay trở lại độc lập. Chính vì vậy mà nhân dân các tộc Việt ai ai cũng mang ơn Hai Bà, không chỉ người Lạc Việt (sau là người Kinh và người Mường) mà người Âu Việt (sau là người Tày, người Nùng) cũng coi Trưng Vương là lãnh tụ của mình, nhất là do đặc biệt tôn quý nên ai cũng muốn coi Trưng Vương là người thuộc dân tộc mình.