Dàn ý tình cảnh lẻ loi người chinh phụ:
I. MỞ BÀI:
- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điềm
- Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm.
- Giới thiệu trích đoạn "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" và khái quát tâm trạng của người chinh phụ trong trích đoạn trên.
II. THÂN BÀI
a. Tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, khát khao hạnh phúc lứa đôi:
- Một mình ở nhà, lẻ loi ngoài hiên, đi đi lại lại;
- Quanh quẩn, quẩn quanh;
- Buông rèm., cuốn rèm bao nhiêu lần,…
=> Những động tác, hành động lặp đi lặp lại không mục đích, vô nghĩa, người chinh phụ cho ta thấy tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng. Nỗi lòng nàng không biết san sẻ cho ai!
- Điệp ngữ bắc cầu: “đèn biết chăng - đèn có biết” đã và sẽ là một biện pháp nghệ thuật phổ biến trong đoạn trích và trong toàn khúc ngâm. (Có thể nói thêm hình ảnh của đoạn dưới non Yên, bằng trời- trời thăm thẳm..) diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian và không gian dường như không bao giờ dứt.
+“Đèn biết chăng - đèn có biết” còn là sự kết hợp việc sử dụng câu hỏi tu từ như lời than thở, nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng trong nàng day dứt không yên. Từ lời kể chuyển thành lời độc thoại nội tâm da diết, tự dằn vặt, rất thương, rất ngậm ngùi.
- Hình ảnh “ngọn đèn, hoa đèn” cùng với hình ảnh cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc nhớ đên hình ảnh ngọn đèn không tắt trong bài ca dao: “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt?...”
=> Không gian quanh người chinh phụ mênh mông, khiến sự cô đơn càng đáng sợ.
b. Bút pháp tả cảnh ngụ tình:
- Dùng cảnh vật thiên nhiên, để miêu tả tâm trạng con người, dùng khách quan để tả chủ quan:
+ Tiếng gà “eo óc” báo hiệu canh năm, chứng tỏ người vợ trẻ xa chồng, đã thao thức suốt cả đêm.
+ Bóng cây hoè ngoài sân, trong vườn ngắn rồi dài, dài rồi lại ngắn: bước đi chậm chạp của thời gian, một khắc, một giờ dài như một năm.
+ Cụ thể hoá mối sầu như niên: đằng đẵng, dằng dặc
+ Hành động: gảy, soi, đốt,... gắn liền với các đồ vật như đàn, hương, gương - những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm của người chinh phụ giờ đây thành miễn cưỡng, gượng gạo, chán chường.
(+) Đốt hương để tìm sự thanh thản mà hồn lại mê man, bấn loạn;
(+) Soi gương mà không cầm được nước mắt;
(+) Dây đàn, phín đàn chỉ nhắc cảnh chia li và nỗi chia lìa ám ảnh dây đứt, phím chùng…
- Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng mang tính ước lệ của thi pháp trữ tình trung đại bóng bảy, sang trọng và cổ kính nhưng người đọc tâm trạng thật của người phụ nữ bồn, cô đơn, lẻ loi, nhớ thương, dằn vặt khi chồng đi chinh chiến phương xa.
c. Nỗi nhớ chồng đi chinh chiến xa trường:
- Gió đông: gió xuân tươi mát làm dịu đi cảnh vật và lòng người - người chinh phu vẫn xa xôi.
- Non Yên: địa danh người chồng chinh chiến.
=> Không gian xa cách muôn trùng giữa người chinh phu và người chinh phụ
- Tâm trạng người chinh phụ được miêu tả trực tiếp:
+ Nỗi nhớ triền miên trong thời gian ''đằng đẵng'' được cụ thể hoá bằng độ dài không gian ''đường lên...''
+ Đất trời dường như bao la đến vô hạn: ''xa thẳm" không có đích, ''đau đáu'' trăn trở không sao gỡ ra được.
=> Tâm trạng của ngừơi chinh phụ được miêu tả ngày càng sầu thảm, làm cho khung cảnh thêm hoang vắng, quạnh hiu. Hình ảnh người chinh phụ chìm sâu trong cô đơn, vò võ, lẻ loi chiếc bóng thao thức suốt 5 canh: nhớ nhung, sầu muộn, lo lắng, day dứt. Khao khát âm thanh mãnh liệt được hưởng hạnh phúc ái ân đôi lứa, đoàn tụ gia đình của người chinh phụ.
III. KẾT BÀI:
- Khẳng định lại tình cảnh và nỗi khát khao hạnh phúc của người chinh phụ.
- Với nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc cộng với một tấm lòng nhân đạo cao cả, Đặng Trần Côn đã xây dựng lên hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến tiêu biểu cho bi kịch về hạnh phúc lứa đôi