Phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều ở lầu ngưng bích
giúp mình với ạ!!!!!!!!!!!!!!


MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (nội dung, nghệ thuật nêu ngắn gọn)
TB:
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm (mở rộng hơn phần mở bài nhé)
2. Tám câu thơ đầu là cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia"
- Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng khóa Xuân
- "Khoá xuân" cho thấy tình cảnh đáng thương của Kiều: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và nó còn hàm chứa nỗi xót xa, mỉa mai thân phận của Thúy Kiều
- Nàng trơ chọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng với non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng -> quang cảnh rộng lớn đối lập với sự trơ chọi, chênh vênh của lầu Ngưng Bích
- Các hình ảnh ấy có thể là ảnh thực, cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng để gợi lên sự mênh mông rợn ngợp của không gian, từ đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều
- Có thể thấy rằng đối diện với thiên nhiên bát ngát rộng lớn ấy là một mình Kiều cô đơn lẻ bóng, không gian càng rộng lớn bao nhiêu thì con người càng như đơn lẻ bấy nhiêu
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
- Tâm trạng thì ngổn ngang trăm mối. Trong cái "bẽ bàng" là có cả sự đau xót, có cả nhục nhã ê chề. Hai chữ "bẽ bàng" được đảo lên đầu câu càng làm nhấn mạnh hơn nỗi xót xa, cốt nhục khi bị chia lìa tình yêu tan vỡ, nhân phẩm bị chà đạp
3. Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
- Nỗi nhớ chàng Kim
+ Người đầu tiên mà Thúy Kiều nhớ tới là Kim Trọng. Có người cho rằng Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước là không hợp lý nhưng ta cần tìm hiểu rõ để thấy được sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du. Khi nàng quyết định bán mình chuộc cha và em tức là đã tạm tròn chữ hiếu nhưng lại dang dở chữ tình nên luôn mang mặc cảm có lỗi với Kim Trọng.
+ Nhớ chàng Kim, Kiều nhớ đến đêm thề nguyện đính ước, nàng tưởng tượng chàng Kim đang ngày đêm mòn mỏi chờ mong tin tức của mình
+ Câu thơ "tấm son gột rửa bao giờ cho phai" có thể hiểu theo hai nét nghĩa. Đó là tấm lòng son sắc thủy chung của Kiều đã bị hoen ố, không thể gột rửa, cũng có thể hiểu đó là tấm lòng thủy chung của Kiều với Kim Trọng sẽ không bao giờ nhạt phai
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"
- Nỗi nhớ cha mẹ
+ Nghĩ về cha mẹ lòng Kiều ngập tràn thương xót, nàng lo lắng cho cha mẹ ngày đêm tựa cửa ngóng trông tin nàng, lo cho nàng
+ Nàng đau đớn tự trách bản thân vì chưa tròn chữ hiếu, không thể ở bên để nâng giấc cho cha mẹ
=> Như vậy, mặc dù Kiều rất đau khổ và cô đơn ở lầu Ngưng Bích nhưng nàng đã quên đi nỗi khổ của chính mình để để lo lắng cho cho người thân. Qua đó ta thấy nàng là một người tình thủy chung, người con hiếu thảo và là một người giàu lòng vị tha
4. Tám câu thơ cuối bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cái nhìn cảnh vật
- Đây là đoạn thơ được xem là kiểu mẫu trong lối thơ sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.
- Tác giả sử dụng thật tài tình điệp ngữ "Buồn trông..." tạo ra hiệu quả nghệ thuật lớn. Buồn mà trông ra tứ phía, nhưng trông mà vô vọng. Điệp từ này vang lên như điệp khúc ngày càng tăng dần lên, lớp lớp vô vọng, vô tận.
- Tám câu thơ với bốn cặp câu, mỗi cặp câu là một ẩn dụ cho một cảnh, một tâm trạng diễn tả những nỗi buồn khác nhau
+ Cảnh một:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa bể mênh mông gợi ra cảnh ngộ cô đơn của Kiều, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ gia đình, quê hương da diết trong lòng người con "bơ vơ nơi đất khách".
+ Cảnh hai:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Hình ảnh ẩn dụ cánh hoa trôi giữa dòng và câu hỏi tu từ "biết là về đâu" gợi ra thân phận lệnh đênh vô định của Kiều. Ta cảm nhận được nàng giống như cánh hoa kia trôi giữa dòng đời đen bạc, sẽ chẳng biết sẽ trôi về đâu.
+ Cảnh ba:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Đến đây không phải là cỏ non xanh như trong tiết thanh minh ở "Cảnh ngày xuân" mà là "cỏ rầu rầu", cỏ đã nhuốm màu tâm trạng. Nhìn sắc cỏ, ta có thể thấy được sự đồng điệu với thân phận Kiều lúc này. Cỏ rầu rầu cùng với màu xanh xanh, sắc xanh héo úa, mịt mù trải dài từ mặt đất đến chân mây gợi ra nỗi chán ngán, hiện ra một tương lai mịt mù, vô định phía trước.
+ Cảnh bốn:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sống vây quanh ghế ngồi
Cái âm thanh "ầm ầm tiếng sóng" ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống cuộc đời Kiều. Từng lớp sóng thật hãi hùng, ghê sợ. Vì thế mà Kiều lo sợ, kinh hãi và tuyệt vọng.
- Nghệ thuật:
+ Tác giả sử dụng hệ thống từ láy tăng nghĩa nhằm diễn tả nỗi buồn tăng lên lớp lớp. Cảnh được miêu tả từ xa tới gần, âm thanh từ tĩnh tới động nhằm diễn đạt nỗi buồn từ man mác mông lung đến lo âu và kinh sợ của Thúy Kiều.
+ Các biện pháp nghệ thuật: điệp từ, câu hỏi tu từ,.... cùng với nhiều từ láy diễn tả chân thực tâm trạng của Kiều.
KB: Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật đoạn trích, giá trị của đoạn thơ đối với tổng thể bài thơ, cảm nghĩ bản thân